SỔ TAY NGHIÊN CỨU VÔ TỶ PHÁP (ABHIDHAMMA)

Biên soạn: Visischaysuvan

Biên dịch: Bhikkhu Abhisiddhi - Siêu Thành
Hướng dẫn biên dịch: Maggabujjhano - Thầy Ngộ Đạo

---------

NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMĀSAMBUDDHASSA
THÀNH KÍNH ĐẢNH LỄ ĐỨC THẾ TÔN, BẬC ỨNG CÚNG, ĐẤNG CHÁNH ĐẲNG GIÁC

 

__________((( )))__________

 

Lời dẫn

Khi nói tới danh từ Vô Tỷ Pháp cũng thường luôn bị hỏi Vô Tỷ Pháp là chi? Học Vô Tỷ Pháp liên quan đến những gì? Ai là người soạn ra Vô Tỷ Pháp? Học Vô Tỷ Pháp được những lợi ích gì? Phần lớn người ta sẽ hiểu, nhưng hiểu Vô Tỷ Pháp là đọc tụng trong nghi thức tang lễ, hay có người chưa từng nghe biết vấn đề, ngay cả chính nhiều người tụng cũng không biết.

Vô Tỷ Pháp là phần cốt lõi đề cập đến pháp cao siêu. Pháp cao siêu ở đây là nói về bốn điều như là Tâm (Citta), Sở Hữu (Cetasika), Sắc (Rūpa) và Níp-bàn (Nibbāna). Vô Tỷ Pháp là cốt lõi của đạo Phật, có ý nghĩa vi tế, sâu xa, dẫn đến sự biết, sự hiểu về pháp bản thể của cuộc sống, vấn đề của nghiệp và sự trổ quả của nghiệp, vấn đề về các cõi khác nhau, vấn đề của vòng luân hồi sanh tử và vấn đề của sự thực hành pháp cho được thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử. Đó là mục đích tối thượng trong đạo Phật.

Tất cả các môn học trên thế giới mà chúng ta đã từng học, từng nghe và từng đọc qua không phải chỉ trong kiếp này hay trong những kiếp trước mà ở quanh quẩn trong vòng sanh tử vô số kiếp cho tới khi đếm không chính xác. Có lẽ chúng ta cũng từng được học, từng nghe và từng đọc nhiều lắm rồi, nhưng cũng không làm cho ta thoát ra khỏi sự khổ, thoát ra sự khó khăn hay thoát khỏi phiền não. Nay cũng trình bày cho thấy là những chuyên môn ấy không làm cho chúng ta sanh khởi trí tuệ cho đúng đắn về bản chất thật, mà chỉ biết được con đường hiệp thế để sử dụng, tự mình duy trì mạng sống chỉ trong thế giới này, kiếp này mà thôi.

Hơn nữa là để cho sanh khởi tri kiến, sự thấu hiểu trong phần cơ bản liên quan đến lịch sử có mặt và ý nghĩa chính của Vô Tỷ Pháp. Vô Tỷ Pháp sẽ dẫn chúng ta đến sự nghiên cứu vi tế sâu xa, sự tu tiến để cho sanh trí tuệ, hiểu thấu đáo trạng thái pháp theo bản chất thật kế tiếp của chính chúng ta. Vì thế, quyển sách này được tập hợp và soạn lại cho dễ hiểu, nhất là liên quan đến Vô Tỷ Pháp.

Với phước thiện nào phát sanh qua việc tập hợp và biên soạn lại cho đến khi thành tựu quyển sách này, tôi xin cúng dường đến Tam bảo, nhà chú giải và giáo thọ sư, tất cả được thừa hưởng gia tài Pháp bảo quí giá này được truyền lại cho đến tận bây giờ.

Và xin cho bình yên, là người có trí tuệ thấu triệt trong pháp lõi, là lời dạy của bậc Chánh đẳng Chánh giác, sự che chở phát sanh đến toàn thể chúng sanh đang luân hồi trong 31 cõi và xin cho thành tựu trên mọi lĩnh vực, nhất là con đường tu tập.

Bhikkhu Visischaysuvan

-----

Vô Tỷ Pháp Là Gì?

Sau khi Sa-môn Gotama trở thành bậc Chánh đẳng Chánh giác được giác ngộ rồi, Ngài đã trình bày giáo pháp tế độ chúng sanh có khả năng thấu hiểu trong thời gian dài đến 45 mùa an cư. Lời dạy của Đức Phật được trình bày có tổng cộng tất cả 84.000 pháp uẩn gọi là Tam tạng để chứa đựng lời dạy và vấn đề của đạo Phật duy trì và đã được chia ra làm 3 tạng hay 3 nhóm cùng nhau là:

I.               Tạng Luật (Vinaya piṭaka).

II.            Tạng Kinh (Suttanta piṭaka).

III.          Tạng Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma piṭaka).

 

I.         Tạng Luật hay gọi ngắn gọn là luật phần, là lời dạy của Đức Phật về những điều học giới (chế định điều học) suốt quá trình tăng sự và qui định của chư tăng, là luật qui định của chư Tỳ-khưu và chư Tỳ-khưu ni sẽ áp dụng, cũng gom một phần lịch sử Đức Phật và lịch sử kết tập Tam tạng có tổng cộng 21.000 pháp uẩn chia ra làm 5 quyển, gọi tắt là Ā, pā, ma, cu, pa  (Đầu đề của Luật) được kể là:

1.  Bộ tiền sự (Ādikammika): Là phạm tội bất cộng trụ, tăng tàng, bất định và lần đầu chế định trong những điều học khác nhau.

2.  Bộ ưng đối trị (Pācittiya): Phạm ưng đối trị là những tội lỗi nhẹ.

3.  Đại phẩm (Mahāvagga): Lịch sử Đức Phật khi mới giác ngộ và cách hành tăng sự theo Luật.

4.  Tiểu phẩm (Cūlavagga): Là cách hành tăng sự theo luật từ Đại Phẩm suốt quá trình đi đến của Tỳ-khưu-ni và làm đúng theo trình tự kết tập Tam tạng.

5.  Toát yếu (Parivāra): Bởi những vấn đề linh tinh (nhỏ nhặt), hay riêng lẻ.

 

II.     Tạng kinh hay gọi tắt là Kinh là tập hợp quá trình thuyết giảng giáo pháp, lời giảng giải và nhiều lời dạy khác nữa để sửa đổi cơ tánh con người và là cơ hội để pháp này trình bày bằng cách sử dụng chế định, khái niệm, chúng sanh, người, vua chúa, chư thiên .v.v... Tạng kinh có lời dạy tất cả 21.000 pháp uẩn, chia ra làm 5 bộ gọi tắt là Di,  ma, saṅ, ang, khu (Đầu đề của kinh) được kể là:

1.  Trường bộ kinh (Dīghanikāya): Kết hợp bởi những bài Kinh cỡ dài, số lượng 34 bài.

2.  Trung bộ kinh (Majjhimanikāya): Kết hợp bởi những bài Kinh cỡ trung, số lượng 152 bài.

3.  Tương ưng bộ kinh (Saṅyuttanikāya): Kết hợp bởi những bài kinh được sắp xếp theo nhóm gọi là Tương ưng có tên theo ý nghĩa. Ví dụ liên quan đến xứ sở Kosala, gọi là Tương ưng Kosala; liên quan đạo, gọi là tương ưng đạo, số lượng 7762 bài kinh.

4.  Tăng chi bộ kinh (Aṅguttaranikāya): Kết hợp bởi những bài kinh được sắp xếp thành nhóm theo nguyên tắc gọi là "tập hợp" như là tập hợp Pháp có điều pháp chỉ 1 câu pháp, cho đến 22 điều pháp, gọi là tập 11 pháp. Trong bộ này có số lượng 9557 bài.

5.  Tiểu bộ kinh (Khuddakanikāya): Kết hợp bởi những lời dạy riêng lẻ, lịch sử và những câu chuyện khác nhau bên ngoài sự sắp xếp của 4 bộ kinh nói trên chia ra theo phần được 15 phần là:

1) Tiểu tụng (Khuddakapāṭha) - trình bày những bài Kinh tụng nho nhỏ, ít ít bởi nhiều bài Kinh tụng ngắn.

2) Pháp cú (Dhammapada) - trình bày những lời dạy theo thể kệ của đức Phật khoảng 423 câu.

3) Phật tự thuyết (Udāna) - trình bày những điều Phật tự thuyết, là kệ ngôn bởi có nhiều chuyện được kết hợp đúng thời.

4) Phật thuyết như vầy (Itivuttaka) - trình bày dẫn chứng đức Phật thuyết như vậy, như vậy.

5) Kinh tập (Suttanipāta) - là nhóm được tập hợp từ những bài riêng lẻ trong Kinh lại với nhau.

6) Thiên cung sự (Vimānavatthu) - trình bày những câu chuyện của người ở Thiên cung và trình bày nhân làm cho sanh lên Thiên cung ấy.

7) Ngạ quỷ sự (Petavatthu) - trình bày câu chuyện của Ngạ quỷ đã làm những tội nghiệp nào.

8) Trưởng lão tăng kệ (Theragāthā) - trình bày những kệ ngôn khác nhau của chư Thánh tăng đệ tử Phật.

9) Trưởng lão ni kệ (Therigāthā) - trình bày những kệ ngôn khác nhau của chư Thánh ni đệ tử Phật.

10) Bổn sanh (Jātaka) - quá trình thuyết pháp đề cập những câu chuyện trong những kiếp quá khứ của Đức Phật.

11) Xiển minh (Niddesa) - nói về vấn đề của xiển minh (giải thích) sự phân loại chia làm Đại xiển minh và Tiểu xiển minh.

12) Phân tích đạo (Paṭisambhidāmagga) - nói đến sự thực hành để đi đến có trí tuệ tột cùng.

13) Thánh Tăng ký sự (Apadāna) -  nhóm này nói đến đời sống lịch sử của Đức Phật,̀ Thánh tăng đệ tử và Thánh ni đệ tử.

14) Phật sử (Buddhavaṃsa) - trình bày lịch sử của 24 vị Phật quá khứ.

15) Hạnh tạng (Cariyāpiṭaka) - trình bày câu chuyện thực hành những pháp độ của Đức Phật.

 

III.  Tạng Vô Tỷ Pháp hay gọi ngắn gọn là Vô Tỷ Pháp, là nhóm tập trung Phật ngôn đề cập nguyên lý cơ bản chuyên môn bởi vấn đề đều là pháp siêu lý[1] (Paramatthadhamma) đưa ra ví dụ là khi nói đến một người nào, theo Vô Tỷ Pháp gọi người không có thật, chỉ là những điều hội họp với nhau như là tâm, sở hữu, sắc pháp. Như thế pháp trong nhóm này không có những vấn đề của người, sự kiện, hay chỗ ở là điều chế định liên quan đến sự dính mắc đó.

Tạng Vô Tỷ Pháp có tổng cộng 42.000 pháp uẩn chia ra làm 7 bộ gọi tắt là Saṅ, vi, tha, pu, ka, ya, pa (Đầu đề Vô Tỷ Pháp) được kể là:

1.   Bộ Pháp Tụ (Dhammasaṅgani): là những Pháp tập hợp theo tụ theo chùm gọi là chương, có tất cả bốn chương là:

a)   Chương phân loại tâm: trình bày sự phân chia tâm và sở hữu .v.v…

b)  Chương phân loại sắc pháp: trình bày sự phân chia về sắc pháp .v.v…

c)   Chương toát yếu: trình bày pháp theo mẫu đề (đầu đề) của pháp siêu lý (Paramatthadhamma).

d)  Chương trích yếu: trình bày sự phân chia phần pháp chánh yếu theo Đầu đề của pháp siêu lý (paramatthadhamma).

2.   Bộ Phân Tích (Vibhaṅga): là sự phân chia đầu đề trong bộ Pháp Tụ. Tất cả đầu đề tam có 22 nhóm và đầu đề nhị có 100 nhóm, chia làm 18 phân tích như là Uẩn[2] phân tích (phân chia Uẩn), Xứ phân tích (phân chia Xứ), Giới phân tích (phân chia Giới), Đế phân tích (phân chia Đế), Quyền phân tích (phân chia quyền), Duyên Khởi phân tích (phân chia theo Duyên Khởi), Niệm Xứ phân tích (phân chia theo Niệm Xứ), .v.v…

3.   Bộ Nguyên Chất Ngữ (Dhātukathā): là những lời giải thích về vấn đề 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới theo đầu đề của bộ với số lượng 105 câu và đầu đề từ bộ Pháp Tụ với số lượng 266 câu (mẫu đề tam 66 câu trong 22 nhóm và nhị đề 200 câu trong 100 nhóm) trình bày bởi nhiều cách khác nhau (số lượng 14 cách). Để tìm lời giải đáp là câu pháp thực tính đó yếu hiệp (nhiếp) được bao nhiêu Uẩn? Yếu hiệp được bao nhiêu Xứ? Và yếu hiệp bao nhiêu Giới? Không yếu hiệp bao nhiêu Uẩn? Không yếu hiệp bao nhiêu Xứ? Không yếu hiệp bao nhiêu giới?

4.   Bộ Nhân Chế Định (Puggalapaññatti): là sự định đặt (sự thông báo, trình bày hay giải thích) trong 6 vấn đề là:

a)   Uẩn chế định là sự chế định vấn đề của Uẩn.

b)  Xứ chế định là sự chế định vấn đề của Xứ.

c)   Giới chế định là sự chế định vấn đề của Giới.

d)  Đế chế định là sự chế định vấn đề của Đế.

e)   Quyền chế định là sự chế định vấn đề của Quyền.

f)    Nhân chế định là sự chế định vấn đề về Người.

5.   Bộ Ngữ Tông (Kathāvatthu): là sự tranh luận để giải thích nhân quả cho thấy rằng luận điểm (quan điểm) của phần tha ngôn (các vị tỳ khưu trong bộ phái cắt ra từ Trưởng Lão Bộ trong thời đại đế Asoka) với số lượng 219 quan điểm sai lệch với Phật ngôn xưa mà các vị tỳ khưu Trưởng Lão Bộ đã thực hành theo. Ở cách thức tranh luận phải có logic. Đáng quan tâm ở đây là Phật ngôn được Đức Phật thuyết một cách đầy đủ, khuôn mẫu mà chỉ có trong bộ đó.

6.   Bộ Song Đối (Yamaka) là sự vấn – đáp về vấn đề mười nhóm Pháp thực tính theo phương pháp hai câu là câu hỏi – câu trả lời thành một đôi là cách đặc biệt của bộ này. Mười nhóm Pháp thực tính như là:

1) Nhóm Căn (Pháp thực tính về nhân).

2) Nhóm Uẩn.

3) Nhóm Xứ.

4) Nhóm Giới.

5) Nhóm Đế.

6) Nhóm Hành.

7) Nhóm Tùy Miên.

8) Nhóm Tâm.

9) Nhóm pháp thực tính trong tam đề thiện gọi tắt là nhóm Pháp.

10) Nhóm Quyền.

Mười nhóm pháp thực tính này chia ý chính của bộ Song Đối ra mười song, gọi tên theo nhóm pháp thực tính có phần chính là:

1) Căn song.                6) Hành song.

2) Uẩn song.                7) Tùy miên song.

3) Xứ song.                  8) Tâm song.

4) Giới song.               9) Pháp song.

5) Đế song.                  10) Quyền song.

7.   Bộ Vị Trí (Paṭṭhāna) là phần phân tích đầu đề pháp thực tính hay đầu đề có tất cả 266 câu (112 nhóm) trong bộ Pháp Tụ bởi mãnh lực duyên 24 loại có Nhân duyên (Hetupaccayo) .v.v… để cho thấy là tất cả pháp thực tính có quy luật sanh lên theo nhân duyên. Tất cả không sanh lên theo sự điều khiển của người nào nhưng diễn tiến theo quy luật của pháp tự nhiên gọi là định luật tâm, định luật nghiệp, định luật pháp.

Tóm lại Vô Tỷ Pháp cũng là phần Pháp thứ 3 trong Tam tạng dạy cho chúng ta thấy rõ pháp bản thể đúng theo sự thật trong thân ta và tất cả chúng sanh như là tâm, sở hữu, sắc pháp và cũng sẽ biết rõ Níp-bàn là mục đích tối thượng trong Đạo Phật.

Pháp Bản thể có 4 là tâm, sở hữu, sắc pháp, Níp-bàn tập hợp lại gọi là pháp siêu lý. Nếu nói theo từ ngữ thì danh từ “Thắng Pháp” hay “Vô Tỷ Pháp” nghĩa là pháp cao tột, cao siêu, vượt trội, pháp có bản chất thật là phi chế định.

Cốt lõi trong Vô Tỷ Pháp gần như tất cả đều sẽ nói đến pháp siêu lý bởi không có liên quan pháp chế định (khái niệm Tục Đế). Do vậy, trước tiên nên hiểu phần cơ bản là: pháp siêu lý và pháp chế định đó khác nhau như thế nào?

Ý Nghĩa Của Pháp Siêu Lý

Pháp Siêu Lý là pháp bản thể, là sự thật chắc chắn duy trì trạng thái của pháp bản thể ấy. Bởi sự không biến đổi, trái lại là pháp bác bỏ chúng sanh, người, tôi, ta bởi có tất cả 4 điều là:

a) Tâm                          c) Sắc pháp

b) Sở hữu tâm             d) Níp-Bàn

Mà có ý nghĩa tóm tắt sau đây:

Tâm là pháp bản thể làm nhiệm vụ thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm luôn cả ý thức phát sanh sự suy nghĩ, suy xét. Thực tính của tâm có tất cả 89 tâm (nói hẹp) hay 121 tâm (nói rộng) nhưng khi nói bằng trạng thái chỉ có một là biết cảnh (Cảnh ở đây nghĩa là sắc, thinh, khí, vị, xúc và cảnh pháp khác nhau mà tâm nhận biết).

Tâm là danh pháp có nhiều tên gọi như là thức, ý, tâm địa, ý quyền, ý giới, ý thức giới và ý xứ .v.v…

Sở Hữu Tâm là pháp bản thể để hòa hợp cùng tâm, tạo ra tâm và làm cho tâm sanh ra sự nhận biết, nghĩ ngợi chia ra từng phần tốt và xấu khác nhau. Có tất cả 52 trạng thái sở hữu là danh pháp sanh cùng với tâm, đồng sanh với tâm, diệt cùng tâm, biết một cảnh với tâm và nương sanh cùng một vật với tâm. Trạng thái của tâm chỉ là làm chủ trong cái biết cảnh, nhưng có tâm sân hay tâm tham là bởi vì có sở hữu hòa hợp làm cho sanh sự giận dữ hay tham đắm đó. Tâm giống như viên thuốc, sở hữu giống như thành phần thuốc ở trong viên thuốc đó. Tâm sanh mà không có sở hữu thì không được và sở hữu sanh mà không có tâm cũng không được.

Bởi vì tâm và sở hữu là pháp đồng sanh cùng thời gian. Như vậy, sự giải thích một vài điểm trong quyển sách này viết là “Tâm + Sở Hữu” để cho nhớ tưởng luôn luôn là tâm và sở hữu đó là pháp bản thể đồng sanh cùng nhau hỗ tương, nương nhờ lẫn nhau và không thể chia lìa nhau ra được.

Sắc Pháp là pháp bản thể có trạng thái rã tan, tiêu hoại đổi thay bởi sự lạnh và sự nóng trong thân của ta và tất cả chúng sanh có sắc pháp hội hợp nhau. Có tất cả 28 loại và sắc pháp hội hợp ở đây, nhưng mỗi loại sắc khác cũng tiêu hoại đổi thay liên tục không có sự bền vững kiên cố.

Níp-bàn là pháp bản thể thoát khỏi sự trói buộc của phiền não, thoát khỏi sự vận hành của vòng sanh tử. Theo sự giải thích có 2 trạng thái là:

a)   Hữu Dư Y Níp-bàn (saupādisesanibbāna) là Níp-bàn vẫn còn hiện hành 5 uẩn nghĩa là sự diệt tận phiền não rồi (phiền não Níp-bàn) nhưng 5 uẩn vẫn còn sanh diệt tiếp (vẫn còn mạng sống).

b)  Vô Dư Y Níp-bàn (anupādisesanibbāna) là Níp-bàn không có 5 uẩn giống như Níp-bàn của vị A-la-hán (người thoát khỏi phiền não) và không còn kiếp sống nữa (phiền não không còn dư sót và 5 uẩn cũng không còn dư sót) hay gọi là viên tịch Níp-bàn (pari = viên). Khi đã Níp-bàn rồi tâm + sở hữu và sắc pháp sẽ dừng sự tiếp nối và diệt mất hoàn toàn (là khi Níp-bàn rồi sẽ không có sanh nữa hay không còn kiếp sống tiếp theo nữa).

Níp-bàn là mục đích tối thượng trong Phật Giáo mà tất cả những người đệ tử của Phật cần cố gắng đạt được cho kỳ được mới xứng danh gọi là Thinh Văn đệ tử Phật là bậc thánh nhân và là người thừa tự pháp bảo trong Phật Giáo.

 

Ý Nghĩa Của Pháp Chế Định

Pháp chế định là pháp mà người ta định đặt để đưa thông tin cho hiểu ý nghĩa với nhau.

Ví dụ: Tên anh Mi, cô Ma, xanh, đỏ, phía bắc, phía nam, thứ hai, thứ ba, tháng tám, tháng mười, năm Tí, năm Sửu, buổi sáng, buổi chiều, 24 giờ, đại tướng, vụ trưởng, bộ trưởng, đồng tiền 50 xu, tiền giấy 100 bath, đoạn đường 1km, cân nặng 1kg, diện tích 1 mẫu. Tất cả đều là sự định đặt. Những điều này gọi là pháp chế định.

Luôn cả đến cây cối, núi non, sông hồ, mặt trời, mặt trăng, sách, viết, đồng hồ, nhà, bàn, ghế, ly nước, muỗng, dĩa, quạt máy, radio, xe bò, thuyền, xe hơi, người và chúng sanh .v.v… cũng sắp xếp vào pháp chế định vậy.

 

Pháp Siêu Lý Là Pháp Vượt Trội Hơn Sự Định Đặt Chế Định

Nếu không có người sanh lên trong thế giới này, ý nghĩa của những điều khác nhau đây là con người chế định lên thành như thế này, thế đó, tên gọi như vậy, như kia. Cũng ắt hẳn không sanh lên như thế. Ngay cả cây cối, núi non, sông hồ, đất đai, mặt trời, mặt trăng .v.v… cũng chỉ là pháp tự nhiên. Nó không có ý nghĩa, không có tên, mà chỉ là hiện tượng sanh từ sự hội hợp nhau của Sắc Đại Hiển đều là sắc pháp (Sắc) không có danh pháp (Tâm+Sở Hữu) đó là thực tính siêu lý (Pháp Siêu Lý) và nó đã hoàn toàn thoát ra sự định đặt chế định.

Phần người và tất cả chúng sanh đó, nếu nói ở khía cạnh pháp siêu lý rồi cho rằng không có thân ta, không có cậu Mi, cô Ma mà chỉ có sắc pháp (Sắc) và danh pháp (Tâm+Sở Hữu) đến hội hợp với nhau.

Vì thế không có “ta”, “tôi” hay “người khác” mà chỉ là tập hợp của tất cả chúng sanh khi nói ở khía cạnh pháp siêu lý hay bản chất thật theo pháp bản thể có ba phần kết hợp đó là:

a)   Tâm là pháp bản thể biết cảnh.

b)  Sở hữu là pháp bản thể kết hợp với tâm và tạo ra tâm, có 52 trạng thái.

c)   Sắc pháp là chi phần có 28 loại tập hợp đầy đủ làm nên thành sắc thân.

Sẽ thấy là tất cả chúng ta và tất cả chúng sanh đều có phần kết hợp giống nhau là:

a)   Chúng ta cũng có tâm, sở hữu và sắc pháp.

b)  Họ cũng có tâm, sở hữu và sắc pháp.

c)   Tất cả chúng sanh cũng có tâm, sở hữu và sắc pháp.

Chỉ có sự tạo tác khác nhau mà sắc thân, mặt, mắt, màu da, mà được phân biệt khác nhau bởi năng lực của nghiệp đã làm trong quá khứ.

Tâm + Sở Hữu và Sắc Pháp có trạng thái phổ thông theo pháp bản thể (Phổ Thông Tướng) có 3 điều là:

a)   Vô thường tướng là có trạng thái không bền vững, không chắc chắn, luôn thay đổi mỗi lúc.

b)  Khổ não tướng là có trạng thái không thể chịu đựng được tình huống trước sanh lên rồi lại bị tiêu diệt ở mọi lúc.

c)   Vô Ngã Tướng là có trạng thái không phải ta, không phải tôi, không thể ép buộc nghe theo bằng mệnh lệnh được.

Ba phổ thông tướng này là sự thật chắc chắn, là định luật pháp tự nhiên gọi là tam tướng.

Kết luận tâm, sở hữu và sắc pháp là sự kết hợp hình thành người hay hình thành bất cứ chúng sanh nào. Thật sự là không có tinh hoa thật chất gì đâu, mà chỉ có sự hội họp nhau của phần cấu tạo vô thường, sanh diệt sanh diệt nối tiếp nhau liên tục (khoảng búng ngón tay tâm sanh diệt triệu triệu lần hay một triệu lần) là trạng thái không có chủ nhân, không là của ai, không có ai là chủ nhân, không diễn tiến theo sự mong muốn, không theo mệnh lệnh của người nào. Sự rỗng không từ cách cấu tạo lên người này, người kia. Sự rỗng không từ sự hình thành thân ta. Sự rỗng không từ sự hình thành cái này, cái kia. Chỉ theo sự định đặt lên mà thôi. Những pháp thực tính đó diễn tiến theo nhân, theo duyên, đồng sanh với nhân, đồng sanh với duyên. Dù Đức Phật có ra đời hay không thì pháp siêu lý này chắc chắn cũng đúng theo pháp bản thể. Đức Phật chỉ là bậc giác ngộ và dẫn dắt chỉ bày cho tất cả chúng ta biết rõ mà thôi (nếu muốn biết rõ cốt lõi sâu xa của bốn pháp siêu lý cũng nên cần nghiên cứu Vô Tỷ Pháp một cách tỉ mỉ và chi tiết).

 

Lịch Sử Của Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma)

Trong tuần lễ thứ tư sau khi Đức Phật giác ngộ, Ngài đã suy xét một cách chi tiết về Vô Tỷ Pháp là cốt lõi liên quan đến pháp siêu lý (Tâm, Sở hữu, Sắc pháp, Níp-bàn) cũng là cốt lõi của giáo pháp trong Phật giáo suốt 7 ngày. Trong lúc suy xét về vấn đề của nhân, vấn đề của duyên trong pháp siêu lý cho đến bộ Vị Trí (Paṭṭhāna) đó thì từ nơi thân Ngài xuất hiện hào quang 6 màu. Có màu xanh, màu đỏ, màu vàng, màu cam, màu trắng và màu chiếu sáng giống như pha lê tỏa ra từ thân Ngài thật kì diệu.

Trong thời điểm sáu mùa an cư đầu tiên truyền bá giáo pháp, Đức Phật chưa truyền dạy Vô Tỷ Pháp cho người nào. Bởi vì Vô Tỷ pháp là pháp liên quan với pháp siêu lý khó mà giải thích cho hiểu được một cách dễ dàng. Người đón nhận ý nghĩa của Vô Tỷ Pháp đó phải là người hợp với đức tin. Trong vấn đề này, một phần đó là chắc chắn và đã từng trau dồi pháp độ liên quan đến trí tuệ. Ở thời gian trước trong lúc bắt đầu truyền đạo, phần lớn là người chưa có đức tin và ít có sự tin cậy trong Phật giáo, chưa sẵn sàng tiếp thu lời dạy liên quan đến pháp siêu lý, là pháp sâu xa vi tế đó. Vì thế, Ngài chưa trình bày cho biết bởi vì nếu trình bày rồi sự nghi ngờ không hiểu hay sự không tin tưởng khởi sanh rồi cũng sẽ là nhân phát sanh sự xem thường, xúc phạm đến Vô Tỷ Pháp. Do vậy sẽ cho quả xấu nhiều hơn là cho quả tốt.

Qua đến mùa an cư thứ bảy là lần đầu tiên Đức Phật trình bày Vô Tỷ Pháp. Ngài ngự lên nhập hạ ở cõi trời Đao Lợi (Tāvatiṃsa) để trả ân đức cho mẫu thân bằng cách thuyết giảng Vô Tỷ Pháp tế độ Phật mẫu, là người đã mất đi từ khi sanh Ngài được bảy ngày và được hóa sanh thành vị Thiên tử trên cõi trời Đẩu Suất (Tusita) có tên là Thiên tử Santusita. Trong lần thuyết giảng này, có Chư thiên và Phạm thiên từ mười ngàn thế giới ta bà. Tất cả có số lượng cả trăm ngàn triệu vị thiên vân tập đến nghe pháp bởi có Thiên tử Santusita là nguyên nhân. Tại nơi ấy Đức Phật trình bày Vô Tỷ Pháp cho chư thiên và Phạm thiên theo phương pháp rộng mở chi tiết (Vithāranaya) có nghĩa là trình bày một cách tỉ mỉ và đã hoàn tất trong suốt thời gian mùa an cư là ba tháng tròn.

Đối với cõi nhân loại, Ngài thuyết giảng pháp này lần đầu tiên cho trưởng lão Sārīputta. Có nghĩa là trong cùng một lúc đang thuyết pháp ở cõi trời Đao Lợi thì Ngài cũng thuyết pháp cho trưởng lão Sārīputta vừa đủ thời gian đi khất thực của Ngài. Ngài dùng song thông tạo ra một hóa thân Phật để thuyết pháp thay thế cho Ngài. Trong lúc đó, Ngài đi khất thực ở xứ Bắc Cưu Lô Châu. Khi đã khất thực xong, Ngài ngự đến rừng cây Candana ở trong khu vực rừng Tuyết Sơn gần hồ Anotatta để độ vật thực bởi có trưởng lão Sārīputta phục vụ mỗi ngày. Sau khi đã độ xong vật thực rồi, Đức Phật cũng tóm tắt những ý chính của Vô Tỷ Pháp mà ngài đã thuyết cho Chư thiên và Phạm thiên cho trưởng lão Sārīputta nghe mỗi ngày. (Đức Phật thuyết giảng cho trưởng lão Sārīputta những điều cơ bản một cách ngắn gọn là trình bày chi tiết ngắn gọn). Xong rồi Ngài quay về cõi trời Đao Lợi để thuyết pháp tiếp tục và Ngài làm công việc như vậy mỗi ngày suốt ba tháng an cư. Khi sự thuyết giảng Vô Tỷ Pháp trên cõi Chư thiên kết thúc thì sự thuyết giảng Vô Tỷ Pháp cho trưởng lão Sārīputta cũng kết thúc cùng lúc đó. Khi Ngài thuyết xong Vô Tỷ Pháp cho Chư thiên và Phạm thiên thì tám trăm triệu Chư thiên chứng quả và Thiên tử Santusita (Phật Mẫu) cũng được chứng quả Dự lưu.

Khi trưởng lão Sārīputta được nghe Vô Tỷ Pháp từ Đức Phật rồi cũng hướng dẫn và truyền dạy lại cho năm trăm vị tỳ khưu là đệ tử của Ngài bằng những lời dạy của Đức Phật mỗi ngày và cũng kết thúc trong 3 tháng giống nhau. Việc dạy Vô Tỷ Pháp của trưởng lão Sārīputta thuyết giảng cho năm trăm vị tỳ khưu này là lời dạy không quá ngắn gọn và không quá dài dòng (Nātivitthāranatisankheppanaya).

Năm trăm vị tỳ khưu này đã từng có căn duyên trong tiền kiếp. Ở thời giáo pháp của Đức Phật Kassapa, năm trăm vị tỳ khưu này là những con dơi sống nương nhờ trong một hang động. Lúc đó có hai vị tỳ khưu thông thuộc Vô Tỷ Pháp cũng nương nhờ ở trong hang động đó đang cùng nhau đọc tụng lại Vô Tỷ Pháp. Trong lúc hai vị tỳ khưu đang đọc tụng Vô Tỷ Pháp năm trăm con dơi cũng được nghe âm thanh ấy nhưng chỉ biết đó là giáo pháp mà thôi. Tuy chúng không biết ý nghĩa chi cả nhưng chúng cũng chú tâm nghe từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Khi hết kiếp sống là những con dơi rồi, chúng cũng được sanh trong cõi Chư thiên đồng đều nhau cả thảy. Cho đến thời kì xuất hiện giáo pháp của đức Chánh Giác Gotama, họ mới tử ở cõi Chư thiên, rồi tái sanh làm người nhân loại và được xuất gia tỳ khưu trong giáo pháp này cho đến khi học được Vô Tỷ Pháp từ trưởng lão Sārīputta đã thuyết. Rồi từ đó, họ học đi học lại nhiều lần cho ghi nhớ và truyền đạt sự thông hiểu Vô Tỷ Pháp này một cách rõ ràng và rộng rãi về sau.

Sau khi Đức Phật đã Níp-bàn rồi. Ba tháng sau khi đã cúng dường xá lợi, trưởng lão Kassapa, trưởng lão Upali, trưởng lão Ānanda cùng với chư vị A-la-hán vân tập tổng cộng năm trăm vị đều là A-la-hán có Tứ tuệ phân tích[3], Lục thông[4] và Tam minh[5] cùng giúp nhau đọc tụng và kết tập Pháp - Luật. Có tất cả tám mươi bốn ngàn pháp uẩn và tán dương Vô Tỷ Pháp là phần Pháp cốt lõi rất quan trọng trong Phật giáo. Việc kết tập lần này có vua Ājatasatu là người ủng hộ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo.

 

Diệu Pháp Lý Hợp Là Gì?

Sau đó, khoảng năm Phật lịch 1200[6] có một vị trưởng lão làu thông Tam tạng. Ngài tên là Trưởng lão Anuruddha. Ngài là người Kāvilakañci thuộc xứ Mandaraja, miền Nam của nước Ấn Độ. Ngài đến nghiên cứu Vô Tỷ Pháp ở chùa Tamūlasomārāma thuộc thành phố Anurāthapurī nước Srilanka cho đến khi thông suốt Pháp học và được nhận được sự tán dương là một vị luận sư Vô Tỷ Pháp. Sau đó, ngài được nhận lời mời từ cận sự nam là thí chủ hỗ trợ soạn tạng Vô Tỷ Pháp, là bộ sách rất chi tiết và sâu xa đã tóm tắt và dễ hiểu, thuận tiện cho việc nghiên cứu cùng với mục đích làm lợi ích cho tất cả những người học Vô Tỷ Pháp trong tương lai. Ngài Anuruddha nương vào bảy bộ Vô Tỷ Pháp làm cơ bản trong phần ngắn gọn Vô Tỷ Pháp và gọi tên bộ này là Diệu Pháp Lý Hợp.

Diệu Pháp Lý Hợp chia ra làm Abhi + dhamma + attha + saṅ + gaha.

Abhi          = cao tột, vi diệu, vô tỷ.

Dhamma = pháp, trạng thái nắm giữ không có sự sai khác, thay đổi.

Attha         = ý nghĩa.

Saṅ            = sự rút gọn, tóm tắt.

Gaha         = gom lại.

Diệu pháp lý hợp có nghĩa là bộ sách này gom họp lại những ý nghĩa quan trọng của bảy bộ Vô Tỷ Pháp một cách tóm gọn giống phương pháp học nhanh Vô Tỷ Pháp chia làm chín chương (chín phần) và mỗi chương có một ý chính theo sự tóm tắt sau đây:

Chương thứ nhất – Tâm nhiếp (yếu hiệp)

Trình bày về pháp bản thể của tâm, tất cả các loại tâm theo cách tóm tắt và chi tiết làm cho hiểu được các loại tâm khác nhau như là tâm thiện, tâm bất thiện, tâm quả, tâm tố (duy tác, hạnh) và tâm siêu thế.

Chương thứ hai – Sở hữu tâm nhiếp (yếu hiệp)

Trình bày về sở hữu là pháp bản thể hợp với tâm và tạo nên tâm. Có tất cả năm mươi hai trạng thái chia làm sở hữu biến hành, sở hữu biệt cảnh, nhóm sở hữu thiện và nhóm sở hữu bất thiện.

Chương thứ ba – Linh tinh nhiếp (yếu hiệp)

Trình bày sự liên quan của tâm và sở hữu với sáu nhóm pháp như là sự cảm thọ của tâm (Thọ), nhân của pháp tốt xấu (Nhân), nhiệm vụ của tâm (Sự), cách thức nhận biết của tâm (Môn), cái mà tâm biết (Cảnh) và nơi nương của tâm (Vật).

Chương thứ tư – Lộ nhiếp (yếu hiệp)

Trình bày về lộ trình tâm như là trình tự, cách thức làm việc của tâm.  Như là phát sanh lộ nhãn, lộ nhĩ, lộ tỷ, lộ thiệt, lộ thân và lộ ý. Khi được nghiên cứu chương này rồi sẽ làm cho hiểu biết được lộ trình làm việc của tất cả các loại tâm. Phước tội không sanh ở đâu mà sanh ở lộ tâm. Chính cái tâm trước đó sẽ sanh tâm thiện hay bất thiện. Chỉ có một sát-na tâm sanh trước mở cửa cho sanh tâm thiện hay bất thiện. Cái tâm này liên quan đến việc tác ý khéo (yonisomanasikāra) hay tác ý không khéo (ayonisomanasikāra). Nếu chúng ta hiểu được cũng sẽ có lợi ích trong sự ngăn ngừa sanh khởi các tâm bất thiện.

Chương thứ năm – Chương ngoại lộ

Trình bày sự làm việc của tâm lúc cận tử, lúc tử (cuti) và lúc tái tục (paṭisandhi). Còn nói đến nguyên nhân của sự tử, sự tái tục của chúng sanh trong các cõi mà chia ra làm ba mươi mốt cõi (cõi nhân loại chỉ là một trong ba mươi mốt cõi mà thôi). Thời gian cận tử trạng thái tâm như thế nào? Nên tác ý tâm như thế nào sẽ được sanh trong nhàn cảnh? Đức Phật còn giải thích một điều rõ ràng là tử rồi sẽ tái sanh lập tức không phải chết rồi mà thức (Tâm) lang thang để đi tìm kiếp sống mới và Ngài còn giải thích thêm là vấn đề của nghiệp được sắp xếp theo sự trổ quả của nghiệp là một điều sâu xa vi tế.

Chương thứ sáu – Sắc nhiếp (yếu hiệp)

Khi đã nghiên cứu các vấn đề về tâm và sở hữu thuộc phần danh pháp rồi. Trong chương sáu này, ngài Anuruddha trình bày một phần kết hợp quan trọng nữa của con người và của tất cả đời sống đó cũng là vấn đề của sắc thân (Sắc Pháp) bằng sự chia chẻ tỉ mỉ ra thành các loại sắc khác nhau. Có tất cả hai mươi tám loại và giải thích nguyên nhân (Hetu) trong sự sanh khởi các loại sắc đó là điều vi tế cao siêu.

Trong phần cuối của chương này nói về Níp-bàn có trạng thái như thế nào? Sẽ làm cho hiểu được vấn đề của Níp-bàn một cách đúng đắn, rõ ràng.

Chương thứ bảy – Tương tập nhiếp

Khi nghiên cứu pháp siêu lý là Tâm, Sở Hữu, Sắc Pháp, Níp-bàn từ chương thứ nhất đến chương thứ sáu rồi. Trong chương này sẽ trình bày pháp theo nhóm thiện mà cho quả an vui và pháp theo nhóm bất thiện mà cho quả khổ. Trong thực tính như thật tâm thiện (tâm tốt) hay tâm bất thiện (tâm xấu) sẽ sanh luân phiên thay đổi nhau ở mọi lúc. Phần tâm sẽ sanh ân đức nào? Công hạnh nào? Nhiều hay ít vào lúc nào của những người chúng ta nói chung không hiểu và không biết những điều thiện hay bất thiện này sẽ làm cho cuộc sống chúng ta rơi vào trong luân hồi đau khổ, không biết khi nào mới kết thúc. Trong chương thứ bảy này trình bày pháp quan trọng nên biết như là thủ uẩn (uẩn mà bị chấp thủ, cố thủ chấp cứng), thập nhị xứ (điều liên kết để cho biết một cảnh), thập bát giới (pháp bản thể gìn giữ thực tính của mình), tứ thánh đế (sự thật của bậc thánh) và pháp bồ đề phần (pháp trợ cho giác ngộ, pháp trợ cho thánh đạo) có ba mươi bảy phần là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ quyền, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát chánh đạo.

Chương thứ tám – Duyên nhiếp (yếu hiệp)

Trong chương này Ngài trình bày về vấn đề Liên Quan Tương Sinh (nhân và quả làm cho có vòng sinh tử trong luân hồi) và duyên trợ là hai mươi bốn duyên. Trong phần cuối cũng trình bày ý nghĩa của pháp chế định đó là pháp không phải sự thật nhưng là sự thật theo cách định đặt (tục đế hay khái niệm định đặt) theo một khuôn khổ của con người.

Chương thứ chín – Nghiệp xứ

Trong chương này Ngài nói về sự thông thạo của Chỉ nghiệp xứ và Quán nghiệp xứ để cho thấy là Chỉ nghiệp xứ (hay là sự tu định) làm cho tâm phát sanh sự yên tịnh và phát sanh thắng trí (sanh các loại thần thông khác nhau) mà không phải là mục đích tối thượng trong Phật giáo. Bởi vì quả của tâm Định hay Chỉ nghiệp xứ đó cũng chỉ là sự trấn áp phiền não nhất thời, không thể làm cho diệt trừ phiền não được. Mặc dù có thể làm cho phát triển Chỉ nghiệp xứ đến bậc thiền vô sắc cho tới khi hưởng sự an lạc ở trong cõi Phạm thiên vô sắc có thời gian dài lâu, nhưng cuối cùng cũng quay về vòng sanh tử không biết đến khi nào mới kết thúc.

Mục đích tối thượng của Phật giáo là Quán nghiệp xứ để cho phát sanh trí tuệ biết bản chất thật trong pháp thực tính theo bản chất thật là tâm, sở hữu và sắc pháp. Đó là chi phần cấu tạo của cuộc sống khác nhau cùng phát sanh lên, trụ và diệt đi, sanh trụ diệt nối tiếp liên tục với nhau một cách nhanh chóng mọi lúc. Đó là trạng thái vô thường không bền vững bởi thực tính ban đầu là không phải ta, không có gì của ta, không có ai là chủ nhân, không thể ép buộc bằng mệnh lệnh được, rỗng không từ sự hình thành ta, tôi. Trí tuệ mà hiểu biết rõ ràng pháp thực tính đúng như thật cũng như là khi có sức lực (trí tuệ) vững chắc cũng sẽ có thể diệt trừ phiền não và cuối cùng là Níp-bàn.

 

Tụng Vô Tỷ Pháp Trong Nghi Thức Tang Lễ

Mỗi người chúng ta chắc chắn sẽ gặp từ “tụng Vô Tỷ Pháp” hay “tổ chức tang lễ tụng Vô Tỷ Pháp” trong bản phân ưu hay trong một bìa báo để mời cùng làm việc thiện. Nhưng mà những vị thường tụng Vô Tỷ Pháp cho những người đã mất. Khi những vị ấy đọc tới phần Vô Tỷ Pháp này, chắc rằng có hiểu rõ ý nghĩa là gì không?

Theo chứng cứ của những vị hiểu biết nói rằng việc đem Vô Tỷ Pháp tụng đọc trong tang lễ của Phật tử Thái Lan đã có từ thời Krungsri Ayutthaya và các ngài đã cho thấy rằng việc đọc tụng đó là việc thiện trong tang lễ để hồi hướng cho những người đã mất đó liên hệ đến sự thương yêu, lòng biết ơn đến người đã mất, đã an giấc nghìn thu. Phật tử Thái Lan đã đem bộ Vô Tỷ Pháp vào kết nối với truyền thống và điều đó đã được thiết lập một cách chắc chắn bởi những lí do sau đây:

Điều đầu tiên là bởi vì Vô Tỷ Pháp không nói đến chúng sanh, không nói đến người, không nói thân ta, chúng ta hay là anh ấy nhưng lại phân chia ra là thiện (kusala), bất thiện (akusala) và vô kí (abyākatā là pháp phi thiện và phi bất thiện) hay phân chia sắc thân này là nhóm, bọn, Uẩn có năm phần, Xứ có mười hai phần, Giới có mười tám phần, Quyền có hai mươi hai phần. Những pháp này diễn tiến theo nhân theo duyên mà dần dần diệt mất theo thực tính có thể an trụ lâu dài. Việc được nghe Vô Tỷ Pháp sẽ làm cho người nghe cung kỉnh theo giống như sự ra đi của người đã mất, làm cho thấy pháp thực tính là sự thật của mạng sống. Học giả xưa chắc chắn cho rằng trong việc này là cơ hội tốt cho người nghe và người thực hành việc thiện trong tang lễ sẽ có thể suy xét thấy sự thật của cuộc đời một cách dễ dàng. Vì vậy, ta nên trình bày cho họ nghe.

Một điều nữa là bởi vì cho rằng trong sự trả ơn cho Phật mẫu của đức Thế Tôn. Ngài đã ngự lên thuyết Vô Tỷ Pháp là bài pháp trên cung trời Đao Lợi để tế độ Phật mẫu là người đã quá cố. Vì vậy, khi ân nhân như là cha mẹ đến vun trồng việc thiện, các nhà hiền trí đã đưa Vô Tỷ Pháp vào kết nối với cách thực hành việc thiện cho người đã mất bởi cho rằng đây là sự đáp trả công ơn cha mẹ theo cách liên hệ đến thiện hạnh, phận sự của Đức Phật, dù rằng những người đã mất không phải là cha hay mẹ. Cũng vậy, mang Vô Tỷ Pháp đến đọc tụng trong tang lễ cũng đã là truyền thống rồi.

Điều cuối cùng là bởi vì tin rằng Vô Tỷ Pháp là lời dạy của bậc Vô Thượng Sĩ có ý nghĩa vi tế, sâu xa có liên quan đến pháp siêu lý. Nếu đem vào trình bày trong việc thực hành việc thiện đến cho người đã mất thì người đã mất sẽ được phước báu vô lượng.

Cách tụng đọc Vô Tỷ Pháp cũng là đem những đoạn Pāḷi ngắn gọn, quan trọng xếp theo tuần tự trong mỗi bộ của bảy bộ Vô Tỷ Pháp. Đôi lúc cách đọc tụng Vô Tỷ Pháp này còn gọi là tụng đầu đề. Nếu là tang lễ của người quan trọng trong hoàng gia thì gọi là ‘cách nghe bộ sách’. Sai lệch đến từ câu ‘sattapakarana’, nghĩa là bảy bộ Vô Tỷ Pháp đó (satta = bảy, pakarana = bộ).

Sau đó, có người hiểu biết đem câu kệ ngôn trong Diệu Pháp Lý Hợp (Abhidhammatthasaṅgaha) của ngài Anuruddha đến tụng theo cách ngâm kệ (là sự tụng theo nhịp ngắn – dài) gọi là tụng tóm tắt. Bởi đem từ ngữ Pāḷi trong phần đầu và phần cuối của mỗi chương mà có tất cả chín chương xếp cùng nhau để tụng.

 

Lợi Ích Từ Việc Nghiên Cứu Vô Tỷ Pháp

Lợi ích sẽ nhận được từ việc nghiên cứu học hỏi Vô Tỷ Pháp có vô số và nhiều phần lợi ích sẽ được tóm gọn sau đây:

1.      Việc nghiên cứu Vô Tỷ Pháp sẽ làm cho chúng ta đi vào phần tinh hoa cốt lõi của Đạo Phật. Bởi vì Vô Tỷ Pháp sanh khởi từ trí tuệ Toàn Tri của Đức Phật. Việc đi vào Vô Tỷ Pháp sẽ giống như đi vào trí tuệ của Đức Phật. Đó là điều thật sự.

2.      Việc nghiên cứu Vô Tỷ Pháp cũng là nghiên cứu pháp bản thể tự nhiên, vận hành của thân và tâm mà là pháp tự nhiên ở trong thân ta và tất cả chúng sanh để cho sanh khởi sự biết thấu hiểu, liên quan đến phần tâm (thức), phần sở hữu tâm phần năng lực của tâm, phần lộ trình tâm, phần nghiệp và sự trổ quả của nghiệp, phần vòng luân hồi sanh tử, phần chúng sanh trong nhiều cõi khác nhau và phần cơ cấu sự vận hành của phiền não làm cho biết rằng cuộc sống của chúng ta trong kiếp hiện tại này đến từ đâu và đến như thế nào? Có cái gì là nhân? Có cái gì là duyên? Khi đã biết được câu trả lời rõ ràng rồi, ta cũng sẽ biết là chết rồi đi đâu và đi như thế nào? Cái gì là thân nối với nhau giữ kiếp này với kiếp sau và làm cho hết nghi ngờ là chết rồi sanh nữa hay không? Địa ngục, Cõi trời có thật hay không? Làm cho có sự thấu hiểu phần nghiệp và sự trổ quả của nghiệp (Quả) là điều vi tế sâu sắc.

3.      Người nghiên cứu Vô Tỷ Pháp sẽ hiểu được vấn đề của pháp siêu lý hay thực tính pháp là đúng theo sự thật của pháp bản thể. Trong Vô Tỷ Pháp sẽ chia trạng thái ra cho thấy là tất cả mọi điều không phải là ta, không phải chúng sanh, không phải người, vậy tất cả là gì? Chắc chắn chỉ có pháp thực tính là tâm, sở hữu, sắc pháp là luân hồi trong sự sanh, già, đau, chết bởi nương nhân, nương duyên giúp đỡ lẫn nhau sanh lên rồi diệt mất, mới sanh lên và rồi cũng diệt mất nữa. Có trạng thái sanh diệt như vậy mọi lúc mọi nơi vô lượng kiếp, không biết bao nhiêu trăm kiếp, triệu kiếp đến rồi tiếp nối nhau như vậy không biết bao giờ mới kết thúc. Dù như thế ai sẽ biết hay không biết cũng vậy, ba pháp thực tính này cũng làm việc như vậy, bởi không có thời gian dừng lại nghỉ ngơi. Pháp thực tính hay pháp bản thể này không phải sanh lên từ thượng đế, phạm thiên, vua trời hay một đấng thiêng liêng nào, hoặc là đấng ban phước hay đấng sáng tạo. Nhưng thực tính pháp đó là quả đến từ nhân, nghĩa là phiền não Ái đó chính là người sáng tạo.

4.      Việc nghiên cứu Vô Tỷ Pháp sẽ làm cho hiểu được pháp thực tính. Một điều nữa là mục đích cao thượng trong Phật giáo cần tu tập làm cho đắc chứng Níp-bàn. Níp-bàn nghĩa là thoát ra khỏi phiền não Ái. Người không có phiền não Ái đó rồi, khi mạng sống chấm dứt cũng sẽ không có sự tiếp nối của tâm, sở hữu và sắc pháp nữa. Khi không có sự tiếp nối đời sống nữa thì chấm dứt vòng luân hồi sanh tử, thoát khỏi tất cả sự khổ một cách hoàn toàn. Níp-bàn là pháp bản thể không có phiền não Ái, là pháp bản thể đã diệt khổ hoàn toàn và là pháp bản thể sanh ra khối năm uẩn. Níp-bàn không phải là chốn Cực Lạc bất diệt và chất đầy với những sự an lạc luôn luôn trường cửu theo thời gian mà phần lớn người ta hiểu như vậy.

5.      Việc nghiên cứu Vô Tỷ Pháp làm cho ta hiểu được lời dạy có ân đức cao thượng trong Đạo Phật bởi vì sự bố thí, trì giới và phát triển thiền định cũng vẫn không phải lời dạy cao thượng nhất trong Đạo Phật, vì nhân đó cho sanh lên để nhận quả thiện đó nữa. Các Ngài gọi là thiện luân hồi bởi vì thiện đó không làm cho thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử. Lời dạy cao thượng nhất trong Phật Giáo là thực hành Minh Sát (Vipassana) nghiệp xứ theo bốn đại niệm xứ để cho thấy là tất cả danh pháp (Tâm+Sở Hữu) và sắc pháp (Sắc) có trạng thái vô thường, không lâu bền, không phải ta, ép buộc theo mệnh lệnh cũng không được, có sự sanh diệt mọi lúc. Để đi tìm sự bền vững nơi ta, hay chủ nhân cũng không có. Khi có trí tuệ thấy như thật trong thực tính pháp đúng theo sự thật đó rồi cũng sẽ dẫn đến sự diệt tận phiền não và chứng đắc Níp-bàn tối thượng.

6.      Việc nghiên cứu Vô Tỷ Pháp sẽ làm cho hiểu được vấn đề cảnh của Minh Sát Tuệ mà cần có danh pháp (Tâm và Sở Hữu) và sắc pháp (Sắc) là cảnh. Khi quán sát cảnh trong tu tập quán nghiệp xứ (Vipassana). Việc tu tập dĩ nhiên cũng cho quả theo sự mong muốn.

7.      Việc nghiên cứu Vô Tỷ Pháp là sự tích góp (bổ sung) pháp độ một cách cao thượng nhất. Không có sự học hỏi, nghiên cứu nào trong thế gian này mà có thể làm cho phát sanh trí tuệ biết được sự thật cõi đời này bằng việc nghiên cứu Vô Tỷ Pháp.

8.      Việc nghiên cứu Vô Tỷ Pháp là cách giúp nhau gìn giữ, duy trì những lời dạy cơ bản của Đức Phật để cho hàng hậu học mai sau. Và cũng là cách giúp duy trì Phật giáo cho kiên cố, bền vững mãi mãi.

 

__________((( )))__________

Số QĐXB của NXB: 277/QĐ-NXBHĐ cấp ngày 23  tháng 05 năm 2020. Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN) 978-604-9970-65-8. Số XNĐKXB: 1751-2020/CXBIPH/64 - 24/HĐ. In xong và nộp lưu chiểu năm 2020.