TẠNG KINH - TIỂU BỘ
TRƯỞNG LÃO NI KỆ
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
1. NHÓM MỘT
1.
1. “Này vị ni bé nhỏ, được trùm lên bằng mảnh vải đã tự làm, cô hãy ngủ an lạc, bởi vì sự luyến ái của cô đã lặng yên, ví như rau xanh (đã được nấu đến lúc) ráo nước ở trong nồi.”
Một vị tỳ khưu ni trưởng lão nào đó không rõ đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của một trưởng lão ni nào đó.
2.
2. “Này Muttā, cô hãy tự thoát ra khỏi các sự ràng buộc, ví như mặt trăng thoát ra khỏi sự nắm giữ của Rāhu (hiện tượng nguyệt thực); với tâm đã được giải thoát, không còn nợ nần, cô hãy thọ dụng đồ ăn khất thực.”
Đức Thế Tôn thường xuyên giáo huấn vị ni tu tập sự Muttā bằng lời kệ này như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Muttā.
3.
3. “Này Puṇṇā, cô hãy làm cho đầy đủ với các Pháp (đưa đến giác ngộ), tựa như mặt trăng tròn ngày rằm; với trí tuệ đã được tròn đủ, cô hãy phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”
Trưởng lão ni Puṇṇā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Puṇṇā.
4.
4. “Này Tissā, cô hãy học tập trong việc học tập, chớ để các điều ràng buộc ngự trị cô. Được tách rời mọi điều ràng buộc, không còn lậu hoặc, cô hãy sống ở thế gian.”
Trưởng lão ni Tissā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Tissā.
5.
5. “Này Tissā, cô hãy gắn bó với các Pháp, chớ để thời cơ vuột khỏi cô. Bởi vì những kẻ để thời cơ qua đi, bị đọa vào địa ngục, chúng sầu muộn.”
Trưởng lão ni Tissā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Tissā.
6.
6. “Này Dhīrā, cô hãy chạm đến sự tịch diệt, sự tịnh lặng của các tưởng, sự an lạc; hãy thành tựu Niết Bàn vô thượng, sự lặng yên của các điều ràng buộc.”
Trưởng lão ni Dhīrā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Dhīrā.
7.
7. “Này Vīrā, vị tỳ khưu ni có các căn đã được tu tập, cô hãy tinh tấn với các Pháp, hãy duy trì thân xác cuối cùng sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với quân binh.”
Trưởng lão ni Vīrā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Vīrā.
8.
8. “Này Mittā, sau khi xuất gia với niềm tin, hãy vui thích với bạn lành, hãy tu tập trong các thiện pháp nhằm đạt được sự an toàn khỏi các ràng buộc.”
Trưởng lão ni Mittā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Mittā.
9.
9. “Này Bhadrā hiền thiện, sau khi xuất gia với niềm tin, hãy vui thích với các việc tốt lành, hãy tu tập trong các thiện pháp (nhằm đạt được) sự an toàn vô thượng khỏi các trói buộc.”
Trưởng lão ni Bhadrā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Bhadrā.
10.
10. “Này Upasamā, nên vượt qua cơn lũ, lãnh địa của Thần Chết rất khó vượt qua, hãy duy trì thân xác cuối cùng sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với quân binh.”
Trưởng lão ni Upasamā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Upasamā.
11.
11. “Lành thay tôi đã được giải thoát, đã khéo được giải thoát với sự giải thoát ba điều tệ hại là cái cối, cái chày, và ông chồng lưng còng. Tôi đã được giải thoát khỏi sanh tử, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa sạch.”
Trưởng lão ni Muttā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Muttā.
12.
12. “Nên có lòng ước muốn sanh khởi, có sự dứt khoát, và được lan tỏa bằng tâm. Người có tâm không bị trói buộc ở các dục, được gọi là ‘người lội ngược dòng nước.’”
Trưởng lão ni Dhammadinnā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Dhammadinnā.
13.
13. “Cô hãy thực hành lời dạy của đức Phật, sau khi đã làm điều ấy, không phải ân hận. Hãy mau chóng rửa các bàn chân rồi ngồi xuống ở một bên.”
Trưởng lão ni Visākhā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Visākhā.
14.
14. “Sau khi nhìn thấy các giới (uẩn-xứ-giới) là khổ đau, chớ đi đến sự sanh lần nữa. Sau khi buông bỏ ước muốn ở hiện hữu, cô sẽ sống, được an tịnh.”
Trưởng lão ni Sumanā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumanā.
15.
15. “Tôi đã thu thúc về thân, về khẩu, rồi về ý. Sau khi nhổ lên tham ái luôn cả gốc rễ, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Uttarā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttarā.
16.
16. “Này sư cụ ni, được trùm lên bằng mảnh vải đã tự làm, bà hãy ngủ an lạc. Bởi vì sự luyến ái của bà đã lặng yên, bà có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Sumanā, vị ni xuất gia ở tuổi già, đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumanā, vị xuất gia ở tuổi già.
17.
17. “Sau khi đi khất thực, yếu sức, tựa vào cây gậy, với tay chân đang run rẩy, tôi đã ngã xuống trên mặt đất ngay tại chỗ ấy. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở thân thể, tâm của tôi đã được giải thoát.”
Trưởng lão ni Dhammā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Dhammā.
18.
18. “Sau khi từ bỏ gia đình, tôi đã xuất gia. Sau khi từ bỏ con trai và gia súc yêu quý, sau khi từ bỏ ái dục và sân, và sau khi buông bỏ vô minh, sau khi nhổ lên tham ái luôn cả gốc rễ, tôi có được trạng thái an tịnh, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Saṅghā đã nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Saṅghā.
Nhóm Một được chấm dứt.
--ooOoo--
19.
19. “Này Nandā, cô hãy nhìn thấy xác thân là bệnh hoạn, không trong sạch, hôi thối, hãy tu tập tâm được chuyên nhất, khéo được định tĩnh, về (đề mục) tử thi.
20. Cô hãy tu tập về vô tướng, hãy dẹp bỏ sự tiềm ẩn của ngã mạn; sau đó, nhờ vào sự lãnh hội về ngã mạn, cô sẽ sống, được an tịnh.”
Đức Thế Tôn thường xuyên giáo huấn vị ni tu tập sự Abhirūpanandā bằng những lời kệ này như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Abhirūpanandā.
20.
21. “Bảy giác chi này là các con đường đưa đến việc đạt được Niết Bàn, tất cả các pháp ấy đã được tôi tu tập đúng theo như (lời) đã được thuyết giảng bởi đức Phật.
22. Bởi vì đức Thế Tôn ấy đã được tôi nhìn thấy, đây là xác thân sau chót (của tôi); việc luân hồi tái sanh đã được triệt tiêu, giờ đây không còn tái sanh nữa.”
Trưởng lão ni Jentā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Jentā.
21.
23. “Này cô ni đã khéo được giải thoát! Này cô ni đã khéo được giải thoát! Lành thay, tôi đã được giải thoát khỏi cái chày. Người chồng vô liêm sỉ của tôi và luôn cả cái dù lọng (không được tôi thích thú). Cái nồi nhỏ của tôi tỏa ra mùi (thối) của loài rắn nước.
24. Tôi tiêu diệt sự luyến ái và sân hận với âm thanh ‘tí ta tí tách.’ Sau khi đi đến gốc cây, nhờ vào sự an lạc, tôi đây tham thiền (nghĩ rằng:) ‘Ôi, an lạc thay!’”
Trưởng lão ni Sumaṅgalamātā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumaṅgalamātā.
22.
25. “Thu nhập của tôi đã là nhiều như (tiền thu thuế của) xứ sở Kāsi. Sau khi quy định giá ấy, các thị dân đã xác định tôi với giá một nửa.
26. Rồi tôi đã nhàm chán sắc đẹp, và trong khi nhàm chán tôi đã không còn luyến ái. Mong sao tôi khỏi phải trải qua việc luân hồi tái sanh lại nữa, lần này lần khác. Ba Minh đã được chứng ngộ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
Trưởng lão ni Aḍḍhakāsī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Aḍḍhakāsī.
23.
27. “Mặc dầu tôi là gầy ốm, bị bệnh, vô cùng yếu sức, sau khi tựa vào cây gậy, tôi đi, trèo lên ngọn núi.
28. Sau khi để y hai lớp xuống, và lập úp lại cái bình bát nhỏ, tôi đã tựa người vào tảng đá, sau khi đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”
Trưởng lão ni Cittā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Cittā.
24.
29. “Mặc dầu tôi bị đau đớn, yếu sức, tuổi trẻ đã đi qua, sau khi tựa vào cây gậy, tôi đi, trèo lên ngọn núi.
30. Sau khi để y hai lớp xuống, và lập úp lại cái bình bát nhỏ, tôi đã ngồi xuống ở tảng đá, và tâm của tôi đã được giải thoát. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
Trưởng lão ni Mettikā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Mettikā.
25.
31. “Ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày thứ tám của nửa tháng, và (các) ngày phụ trội của nửa tháng,[1] tôi đã tham gia ngày Trai Giới khéo được hội đủ tám yếu tố, có sự ham thích (được sanh) về tập thể chư Thiên.
32. Hôm nay, tôi đây, với một bữa ăn, đầu cạo, trùm lên y hai lớp, không còn mong mỏi tập thể chư Thiên sau khi đã dẹp bỏ sự buồn bực ở tâm.”
Trưởng lão ni Mettā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Mettā.
26.
33. “‘Thưa mẹ, từ lòng bàn chân trở lên, từ chóp cọng tóc trở xuống, mẹ hãy quán xét thân này là không trong sạch, có mùi hôi thối.’
34. Trong khi an trú như vậy, tất cả luyến ái đã được xóa sạch, sự bực bội đã được trừ tuyệt, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Abhayamātā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Abhayamātā.
27.
35. “‘Này Abhayā, thân thể là mỏng manh, những kẻ phàm phu bị quyến luyến với nó.’ Tôi sẽ buông bỏ thân xác này, có sự nhận biết rõ, có niệm.
36. Do nhiều hiện tượng khổ đau, tôi đã thích thú trong sự không xao lãng. Sự cạn kiệt của tham ái đã được tôi thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành.”
Trưởng lão ni Abhayā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Abhayā.
28.
37. “Không đạt được sự an tịnh của ý, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, tôi đã đi ra khỏi trú xá bốn lần, năm lần.
38. Đối với tôi đây là đêm thứ tám, kể từ lúc ấy tham ái đã được xóa sạch. Do nhiều hiện tượng khổ đau, tôi đã thích thú ở sự không xao lãng; sự cạn kiệt của tham ái đã được tôi thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành.”
Trưởng lão ni Sāmā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sāmā.
Nhóm Hai được chấm dứt.
--ooOoo--
29.
39. “Hai mươi lăm năm kể từ khi tôi đã được xuất gia, tôi không biết sự bình lặng của tâm đã có khi nào đạt được.
40. Không đạt được sự an tịnh của ý, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, do đó, tôi đã đạt đến sự chấn động sau khi nhớ lại lời dạy của đấng Chiến Thắng.
41. Do nhiều hiện tượng khổ đau, tôi đã thích thú ở sự không xao lãng; sự cạn kiệt của tham ái đã được tôi thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành. Hôm nay, đối với tôi là đêm thứ bảy, kể từ lúc ấy tham ái đã được làm khô héo.”
Trưởng lão ni Sāmā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sāmā.
30.
42. “Không đạt được sự an tịnh của ý, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, tôi đã đi ra khỏi trú xá bốn lần, năm lần.[2]
43. Tôi đây đã đi đến gặp vị tỳ khưu ni, vị ni ấy đối với tôi đã là người đáng tin cậy. Vị ni ấy đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, (mười tám) giới.
44. Sau khi lắng nghe Pháp của vị ni ấy, đúng theo như vị ni ấy đã chỉ dạy cho tôi, tôi đã ngồi xuống chỉ một tư thế kiết già trong bảy ngày, đạt được sự an lạc. Vào ngày thứ tám, tôi đã duỗi ra các bàn chân, sau khi đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”
Trưởng lão ni Uttamā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttamā.
31.
45. “Bảy giác chi này là các con đường đưa đến sự đạt được Niết Bàn, tất cả các pháp ấy đã được tôi tu tập đúng theo như (lời) đã được thuyết giảng bởi đức Phật.[3]
46. Tôi có sự đạt được không tánh và vô tướng theo như ước muốn. Tôi là người con gái chính thống của đức Phật, luôn luôn thỏa thích Niết Bàn.
47. Tất cả các dục thuộc về cõi trời và thuộc về loài người đã được trừ tuyệt, việc luân hồi tái sanh đã được triệt tiêu, giờ đây không còn tái sanh nữa.”
Trưởng lão ni Uttamā khác đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttamā.
32.
48. “Sau khi rời khỏi chỗ nghỉ ban ngày ở ngọn núi Gijjhakūṭa, tôi đã nhìn thấy con voi lội xuống rồi bước lên ở bờ sông.
49. Người đàn ông cầm lấy cái móc câu yêu cầu rằng: ‘Hãy đưa bàn chân ra.’ Con voi đã duỗi bàn chân ra, người đàn ông đã trèo lên con voi.
50. Sau khi nhìn thấy con vật chưa được huấn luyện đã được huấn luyện, đã đi vào sự kiểm soát của loài người, do đó, tôi đã tập trung tâm, đã đi vào khu rừng đương nhiên vì việc ấy.”
Trưởng lão ni Dantikā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Dantikā.
33.
51. “‘Bà khóc lóc ở trong rừng rằng: Ôi Jīvā con ơi! Này bà Ubbirī, hãy trấn tĩnh bản thân. Tất cả tám mươi bốn ngàn cô gái đã được thiêu đốt ở nơi hỏa táng này đều có tên Jīvā, bà buồn rầu cho cô nào trong số đó?’
52. Quả thật, Ngài đã rút ra mũi tên khó nhìn thấy đã được cắm vào trái tim, là việc khi tôi bị sầu muộn chế ngự, Ngài đã xua đi nỗi sầu muộn về người con gái cho tôi.
53. Hôm nay, tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, không còn cơn đói, đã chứng Niết Bàn. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật bậc Hiền Trí, Giáo Pháp, và Hội Chúng.’”
Trưởng lão ni Ubbirī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Ubbirī.
34.
54. “Những người dân này ở Rājagaha đã làm gì? Họ ngồi yên như là đã uống (say) mật ong, họ không đi đến vị ni Sukkā đang thuyết giảng về Giáo Pháp của đức Phật.
55. Và Giáo Pháp ấy là không thể cưỡng lại, không bị trộn lẫn, có dưỡng chất. Tôi nghĩ rằng những người có trí tuệ uống (Giáo Pháp ấy) tựa như những người lữ hành uống (nước từ) đám mây mưa.
56. Với các pháp (siêu thế) trong sạch, có sự luyến ái đã được xa lìa, được định tĩnh, Sukkā mang thân mạng cuối cùng, sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.”
Trưởng lão ni Sukkā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sukkā.
35.
57. “‘Không có sự thoát ly ở thế gian, nàng sẽ làm gì với việc ẩn cư? Nàng hãy thọ hưởng các sự thích thú trong các dục, chớ có sự tiếc nuối sau này.’
58. ‘Các dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt của chúng. Điều ngươi gọi là sự thích thú trong các dục, điều ấy giờ đây là sự không thích thú đối với ta.
59. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.’”
Trưởng lão ni Selā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Selā.
36.
60. “Vị thế ấy là có thể đạt đến bởi các bậc ẩn sĩ, là khó với tới, không thể đạt được bởi người nữ có sự nhận biết nhờ vào hai ngón tay.
61. Bản thể của người nữ có thể gây ra điều gì đối với chúng tôi, đối với người đang nhìn thấy rõ Pháp một cách đúng đắn, khi tâm (của người ấy) đã khéo được định tĩnh, khi trí đang được vận hành?
62. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi, khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.”[4]
Trưởng lão ni Somā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Somā.
Nhóm Ba được chấm dứt.
--ooOoo--
37.
63. “Kassapa, người con trai, người thừa tự của đức Phật, khéo được định tĩnh, là vị có sự biết được đời sống trong thời quá khứ, nhìn thấy được cõi trời và địa ngục.
64. Rồi (vị ấy) đã đạt đến sự cạn kiệt của tái sanh, là vị hiền trí được hoàn hảo về Thắng Trí, với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có ba Minh.
65. Tương tự như thế ấy, Bhaddākāpilānī là vị ni có ba Minh, có sự chiến thắng Thần Chết, mang thân mạng cuối cùng, sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.
66. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở thế gian, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Chúng tôi đây có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã được huấn luyện, đã có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Bhaddākāpilānī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Bhaddākāpilānī.
Nhóm Bốn được chấm dứt.
--ooOoo--
38.
67. “Hai mươi lăm năm kể từ khi tôi đã được xuất gia, tôi đã không chứng đắc sự an tịnh của tâm cho dầu chỉ bằng thời gian của một khảy móng tay.
68. Không đạt được sự an tịnh của ý, bị đắm nhiễm bởi sự luyến ái ở các dục, trong khi đưa hai cánh tay lên, khóc lóc, tôi đã đi vào trú xá.
69. Tôi đã đi đến gặp vị tỳ khưu ni ấy; vị ni ấy đối với tôi đã là người đáng tin cậy. Vị ni ấy đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, (mười tám) giới.
70. Sau khi lắng nghe Pháp của vị ni ấy, tôi đã ngồi xuống ở một góc. Tôi biết được đời sống trong thời quá khứ, Thiên nhãn đã được trong sạch.
71. Trí biết được tâm của người khác, và nhĩ giới đã được trong sạch. Thần thông cũng đã được tôi chứng ngộ, sự cạn kiệt của các lậu hoặc đã được tôi đạt đến, sáu Thắng Trí đã được chứng ngộ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
Một trưởng lão ni nào đó đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của một trưởng lão ni nào đó.
39.
72. “Bị đắm say với màu da, dáng vóc, vẻ đẹp, và tiếng tăm, và kiêu kỳ với tuổi thanh xuân, tôi đã khinh khi những người đàn bà khác.
73. Sau khi trang điểm thân này vô cùng sặc sỡ, khiến những kẻ ngu trầm trồ, tôi đã đứng ở cửa lớn của tiệm buôn hươngbán phấn, tựa như người thợ săn giăng ra bẫy mồi.
74. Trong khi phô bày sự chưng diện, bộ phận kín được bộc lộ nhiều nơi, tôi đã làm nhiều trò ma mãnh trong khi cười giỡn với đám đông người.
75. Hôm nay, tôi đây, sau khi đi khất thực, đầu cạo, trùm lên y hai lớp, ngồi xuống ở gốc cây, có sự đạt được trạng thái vô tầm (nhị thiền).
76. Tất cả các sự ràng buộc thuộc về cõi trời và thuộc về loài người đã được trừ tuyệt. Sau khi quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Vimalā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Vimalā.
40.
77. “Có sự tác ý không theo đúng đường lối, bị khổ sở vì sự luyến ái ở các dục, trước đây tôi đã tự kiêu, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm.
78. Bị xâm nhập bởi các phiền não, có khuynh hướng nhận biết về nét đẹp (tịnh tướng), có sự chiều theo tác động của tâm luyến ái, tôi đã không đạt được sự bình lặng của tâm.
79. Bị ốm o, vàng vọt, và xuống sắc, tôi đã sống bảy năm. Tôi đã không tìm thấy sự an lạc vào ban ngày hoặc ban đêm, vô cùng khổ sở.
80. Do đó, tôi đã cầm lấy sợi dây thừng rồi đã đi vào bên trong khu rừng. Ở đây, việc treo lên (tự vẫn) đối với tôi là cao quý hơn việc tôi trở lại thực hành đời sống thấp kém (của người tại gia).
81. Sau khi đã thực hiện cái thòng lọng chắc chắn, sau khi đã buộc ở cành cây, tôi đã quàng cái thòng lọng vào cổ, khi ấy tâm của tôi đã được giải thoát (khỏi các lậu hoặc).”
Trưởng lão ni Sīhā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sīhā.
41.
82. “‘Này Nandā, cô hãy nhìn thấy xác thân là bệnh hoạn, không trong sạch, hôi thối, hãy tu tập tâm được chuyên nhất, khéo được định tĩnh, về (đề mục) tử thi.[5]
83. Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác kia như thế nào thì thân này như vậy. Nó bốc mùi khó chịu, hôi thối, lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
84. Trong khi xem xét xác thân này như thế, không biếng nhác, cả ngày lẫn đêm, từ đó, với trí tuệ của mình, sau khi đã phân thích thấu đáo, cô sẽ nhìn thấy.’
85. Tôi đây, không bị xao lãng, trong lúc đang suy xét theo đúng đường lối, đã nhìn thấy thân này đúng theo bản thể, cả bên trong lẫn bên ngoài.
86. Rồi tôi đã nhàm chán xác thân, và tôi đã không còn luyến ái ở nội phần. Không bị xao lãng, không còn bị ràng buộc, tôi có được trạng thái an tịnh, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Sundarīnandā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sundarīnandā.
42.
87. “Tôi đã lễ bái ngọn lửa, mặt trăng, mặt trời, và chư Thiên. Sau khi đi đến các bến nước ở dòng sông, tôi đã lội xuống nước.
88. Với sự thọ trì nhiều phận sự, tôi đã cạo một nửa đầu tóc, tôi sắp xếp việc nằm ở mặt đất, tôi đã không thọ dụng thức ăn vào ban đêm.
89. Ưa thích việc trang sức và tô điểm, với các việc tắm rửa và thoa bóp, tôi đã hầu hạ thân xác này, bị khổ sở vì sự luyến ái ở các dục.
90. Sau đó, khi đã đạt được niềm tin, tôi đã xuất gia sống đời không nhà, sau khi nhìn thấy xác thân đúng theo bản thể, sự luyến ái ở các dục đã được xóa sạch.
91. Tất cả các hữu, các sự ước muốn, và các điều mong mỏi đã được trừ tuyệt. Không còn bị ràng buộc bởi tất cả các điều ràng buộc, tôi đã đạt được sự an tịnh của tâm.”
Trưởng lão ni Nanduttarā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Nanduttarā.
43.
92. “Sau khi xuất gia vì lòng tin, rời nhà sống không nhà, tôi đã đi lang thang đó đây, năng nổ về lợi lộc và sự tôn vinh.
93. Sau khi đã bỏ bê mục đích tối hậu, tôi đã đeo đuổi mục đích thấp kém. Sau khi đi đến khu rừng của các phiền não, tôi đã không thấu hiểu được mục đích của đời sống Sa-môn.
94. Khi đã ngồi xuống ở trong trú xá nhỏ, tôi đây đã có sự chấn động. Tôi đã thực hành đường lối sái quấy, đã đi vào sự kiểm soát của tham ái.
95. Mạng sống của tôi là ít ỏi. Già và bệnh dẫm đạp nó. Thân thể bị tan vỡ bởi sự già, tôi không còn thời gian để xao lãng.
96. Trong khi xem xét đúng theo bản thể về sự sanh và diệt của các uẩn, với tâm đã được giải thoát, tôi đã đứng lên; lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
Trưởng lão ni Mittākāḷi đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Mittākāḷi.
44.
97. “Trong khi sống tại gia, tôi đã lắng nghe Pháp của vị tỳ khưu, tôi đã nhìn thấy pháp xa lìa luyến ái, Niết Bàn, vị thế Bất Hoại.
98. Sau khi lìa bỏ con trai, con gái, tài sản, và lúa gạo, sau khi nhờ người cạo tóc, tôi đây đã xuất gia sống đời không nhà.
99. Trong khi là cô ni tu tập sự, trong khi tu tập Đạo Lộ thẳng tắp, tôi đã dứt bỏ luyến ái và sân hận, luôn cả các lậu hoặc đồng sanh với chúng.
100. Sau khi đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu ni, tôi đã nhớ lại đời sống trước đây. Thiên nhãn đã được trong sạch, không vết nhơ, đã được tu tập tốt đẹp.
101. Sau khi nhìn thấy các hành là vô ngã, được sanh lên do nhân, (có bản chất) bị tan rã, tôi đã dứt bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lão ni Sakulā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sakulā.
45.
102. “Sau khi sanh ra mười người con trai ở sắc thân này, vì thế, bị yếu sức, già nua, tôi đã đi đến gặp vị tỳ khưu ni.
103. Vị ni ấy đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, (mười tám) giới. Sau khi lắng nghe Pháp của vị ni ấy, tôi đã cạo tóc, và đã xuất gia.
104. Trong khi tôi đây là cô ni tu tập sự, Thiên nhãn (của tôi) được trong sạch, tôi biết đời sống trước đây, nơi tôi đã sống trước đây.
105. Và tôi tu tập về vô tướng, được chuyên nhất, khéo được định tĩnh. Liền khi đó, tôi đã được giải thoát, chứng được Niết Bàn, không còn chấp thủ.
106. Năm uẩn đã được biết toàn diện, chúng tồn tại với gốc rễ đã được chặt đứt. Này bà già đáng thương, thật xấu hổ cho ngươi! Giờ đây không còn tái sanh nữa.”
Trưởng lão ni Soṇā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Soṇā.
46.
107. “Trước đây, tôi đã đi lang thang, tóc được cạo, mang bùn đất, mặc một mảnh y phục, với sự suy nghĩ là có tội ở việc không tội, và với sự nhận thức là không tội ở việc có tội.
108. Sau khi rời khỏi chỗ nghỉ ban ngày ở ngọn núi Gijjhakūṭa, tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, được tôn vinh bởi Hội Chúng tỳ khưu.
109. Sau khi quỳ gối xuống, đảnh lễ, tôi đã (đứng) đối diện, chắp tay lại. Ngài đã nói với tôi rằng: ‘Này Bhaddā, hãy đến;’ việc ấy đã là sự tu lên bậc trên của tôi.[6]
110. (Tôi đã) du hành qua (các xứ sở) Aṅga, Magadha, Vajjī, Kāsī, và Kosala. Trong năm mươi năm, tôi đã thọ dụng vật thực của các quốc độ, không có nợ nần.
111. Quả thật, ông ta đã tạo được nhiều phước báu! Quả thật, nam cư sĩ này có trí tuệ! Ông ta đã bố thí y đến Bhaddā, vị ni đã được giải thoát khỏi các sự cột trói.”
Trưởng lão ni Bhaddākuṇḍalakesā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Bhaddākuṇḍalakesā.
47.
112. “Trong khi cày thửa ruộng với những cái cày, trong khi gieo những hạt giống ở đất, trong khi nuôi dưỡng các con và vợ, những người thanh niên tìm kiếm tài sản.
113. Được đầy đủ giới, là người thực hành lời dạy của bậc Đạo Sư, không biếng nhác, không loạn động, tại sao tôi không chứng đắc Niết Bàn?
114. Sau khi rửa hai bàn chân, tôi chú ý ở những chỗ nước (đã được đổ xuống), và tôi đã nhìn thấy nước rửa chân từ đất cao đi đến chỗ thấp.
115. Do đó, tôi đã khiến tâm được định, tựa như (người xa phu điều khiển) con ngựa hiền thiện thuần chủng. Sau đó, tôi đã cầm lấy cây đèn rồi đi vào trú xá.
116. Sau khi xem xét chỗ nằm, tôi đã ngồi xuống chiếc giường nhỏ. Sau đó, tôi cầm lấy cây kim khều cái tim đèn. Sự giải thoát của tâm đã xảy ra, tựa như sự lụi tàn của cây đèn.”
Trưởng lão ni Paṭācārā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Paṭācārā.
48.
117. “Sau khi cầm lấy những cái chày, những người thanh niên giã thóc. Trong khi nuôi dưỡng các con và vợ, những người thanh niên tìm kiếm tài sản.
118. ‘Các cô hãy thực hành lời dạy của đức Phật, sau khi làm điều ấy thì không phải hối tiếc. Các cô hãy nhanh chóng rửa các bàn chân rồi hãy ngồi xuống ở một góc. Được gắn liền với sự bình lặng của tâm, các cô hãy thực hành lời dạy của đức Phật.’
119. Sau khi lắng nghe lời nói, lời chỉ dạy của vị ni Paṭācārā ấy, (ba mươi) vị ni ấy đã nhanh chóng rửa các bàn chân rồi ngồi xuống ở một góc. Được gắn liền với sự bình lặng của tâm, các cô đã thực hành lời dạy của đức Phật.
120. Vào canh thứ nhất của đêm, họ đã nhớ lại đời sống trước đây. Vào canh giữa của đêm, họ đã làm trong sạch Thiên nhãn. Vào canh cuối của đêm, họ đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).
121. Sau khi đứng lên, họ đã (đi đến gặp và đã) đảnh lễ các bàn chân (của vị ni Paṭācārā và thưa rằng): ‘Các lời chỉ dạy của ni sư đã được thực hành. Chúng tôi sẽ tôn vinh và sẽ sống (với ni sư), tựa như chư Thiên cõi Ba Mươi đối với vị Trời Inda không bị đánh bại ở chiến trường. Chúng tôi có ba Minh, không còn lậu hoặc.’”
Các tỳ khưu ni trưởng lão số lượng ba mươi vị đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của ba mươi vị tỳ khưu ni trưởng lão.
49.
122. “Trước đây, tôi đã bị lâm cảnh bất hạnh, góa phụ và không con cái, không có các bạn bè thân quyến, tôi đã không đạt được thức ăn và y phục.
123. Sau khi cầm lấy cái bình bát và cây gậy, trong khi xin ăn từ nhà này sang nhà khác, trong khi bị thiêu đốt bởi lạnh và nóng, tôi đã sống bảy năm.
124. Về sau, tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu ni có sự nhận được cơm ăn và nước uống, tôi đã đi đến gần và đã nói rằng: ‘Hãy cho tôi xuất gia sống đời không nhà.’
125. Và vị ni Paṭācarā ấy, vì lòng bi mẫn, đã cho tôi xuất gia, sau đó đã giáo huấn và đã khuyến khích tôi về mục đích cao cả.
126. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, tôi đã làm theo lời chỉ dạy. Lời giáo huấn của ni sư là không vô ích; tôi có ba Minh, không còn lậu hoặc.’”
Trưởng lão ni Candā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Candā.
Nhóm Năm được chấm dứt.
--ooOoo--
50.
127. “‘Cô không biết chúng sinh ấy đã từ đâu đi đến, (không biết) con đường đã đi đến hoặc đã ra đi của nó, thế mà cô khóc là: Con trai tôi!
128. Nếu cô biết con đường đã đi đến hoặc đã ra đi của nó, thì cô không sầu muộn cho nó, bởi vì các sinh linh có quy luật như vậy.
129. Không được mời mọc, từ nơi kia nó đã đi đến; không được cho phép, từ nơi này nó đã ra đi. Thật vậy, sau khi đã đi đến từ nơi nào đó, sau khi sống vài ngày, từ nơi này nó cũng đã ra đi bằng cách khác, từ nơi kia nó cũng sẽ ra đi bằng cách khác.
130. Nó đã từ trần với vóc dáng con người, trong khi còn luân hồi, nó sẽ còn ra đi. Nó đã đi đến như thế nào, nó đã ra đi như thế ấy. Trong trường hợp ấy, than khóc có ý nghĩa gì?’
131. Quả thật, vị ni ấy đã rút ra mũi tên khó nhìn thấy đã được cắm vào trái tim, khi tôi bị sầu muộn chế ngự, vị ni ấy đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai cho tôi.[7]
132. Hôm nay, tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, không còn cơn đói, đã chứng Niết Bàn. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, bậc Hiền Trí, Giáo Pháp, và Hội Chúng.”[8]
Các tỳ khưu ni trưởng lão số lượng 500 vị đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của năm trăm vị trưởng lão ni.
51.
133. “Do nỗi sầu muộn về đứa con trai, tôi bị khổ sở, có tâm bị rối loạn, không còn nhận biết, lõa thể, và đầu tóc rối tung, tôi đã đi lang thang đó đây.
134. Tôi đã sống ở những đống rác, ở bãi tha ma, và ở những đường lộ. Tôi đã lang thang ba năm, chịu đựng sự đói khát.
135. Về sau, tôi đã nhìn thấy đấng Thiện Thệ, bậc thuần phục những kẻ chưa được thuần phục, đấng Toàn Giác, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu, đang đi về hướng thành Mithilā.
136. Sau khi đạt lại được tâm của mình, tôi đã đảnh lễ, rồi đã ngồi xuống. Vị Gotama ấy, vì lòng bi mẫn, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi.
137. Sau khi lắng nghe Pháp của Ngài, tôi đã xuất gia sống đời không nhà. Trong khi rèn luyện theo lời dạy của bậc Đạo Sư, tôi đã chứng ngộ vị thế An Toàn.
138. Tất cả các nỗi sầu muộn đã được trừ tuyệt, đã được dứt bỏ, có sự tận cùng ở vị thế này; bởi vì tôi đã biết toàn diện các nền tảng, từ nơi ấy có sự sanh khởi các nỗi sầu muộn.”
Trưởng lão ni Vāseṭṭhī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Vāseṭṭhī.
52.
139. “‘Nàng trẻ trung và có sắc đẹp, ta cũng trẻ trung và là thanh niên. Này Khemā, nàng hãy đến. Chúng ta hãy vui thú với nhạc cụ gồm có năm loại.’[9]
140. ‘Ta bị khổ sở, bị hổ thẹn với xác thân hôi thối, bệnh hoạn, mảnh mai này. Ta có tham ái trong các dục đã được xóa sạch.
141. Các dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt của chúng. Điều ngươi gọi là sự thích thú trong các dục, điều ấy giờ đây là sự không thích thú đối với ta.[10]
142. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.
143. Này những kẻ ngu dốt, trong khi lễ bái các vì tinh tú, trong khi thờ phụng ngọn lửa ở trong rừng, trong khi không biết đúng theo bản thể, các ngươi nghĩ là sự trong sạch.
144. Còn ta, ngay trong khi lễ bái đấng Toàn Giác, bậc Tối Thượng Nhân, ta đã được hoàn toàn giải thoát khỏi tất cả các khổ đau, ta là người thực hành Giáo Pháp của đấng Đạo Sư.’”
Trưởng lão ni Khemā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Khemā.
53.
145. “Được trang điểm, có y phục đẹp, có tràng hoa, được bôi trầm hương, được che phủ với tất cả các đồ trang sức, (tôi) dẫn đầu đám nữ tỳ.
146. Sau khi cầm lấy cơm và nước, vật thực cứng mềm không phải là ít, sau khi rời khỏi nhà, tôi đã cho mang đến vườn hoa.
147. Sau khi đã vui thú và đùa giỡn ở nơi ấy, trong khi đi về lại nhà của mình, tôi đã nhìn thấy tu viện và tôi đã đi vào khu rừng Añjana ở Sāketa.
148. Sau khi nhìn thấy đấng Quang Đăng của thế gian, tôi đã đảnh lễ và đã ngồi xuống. Bậc Hữu Nhãn ấy, vì lòng bi mẫn, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi.
149. Và sau khi lắng nghe, quả nhiên tôi đã thấu triệt Chân Lý của bậc Đại Ẩn Sĩ. Ngay tại nơi ấy, tôi đã chạm đến Giáo Pháp vô nhiễm, vị thế Bất Tử.
150. Sau đó, nhận thức được Chánh Pháp, tôi đã xuất gia sống đời không nhà. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật là không vô ích.”
Trưởng lão ni Sujātā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sujātā.
54.
151. “Tôi đã được sanh ra trong gia đình cao quý, có nhiều của cải, có tài sản đồ sộ, được thành tựu về màu da và dáng vóc, con gái ruột của Megha.
152. Được những người con trai của các vị vua ao ước, được những người con trai của các nhà triệu phú khao khát, họ đã gởi sứ giả đến gặp cha tôi: ‘Hãy gả Anopamā cho chúng tôi.
153. Cô con gái Anopamā ấy của ông được cân nặng chừng nào, tôi sẽ trao vàng và ngọc tám lần so với chừng ấy.’
154. Tôi đây, sau khi lắng nghe đấng Toàn Giác, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Vô Thượng, tôi đã đảnh lễ hai bàn chân của Ngài rồi đã ngồi xuống một bên.
155. Ngài Gotama ấy, vì lòng bi mẫn, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi. Ngồi ở tại chỗ ấy, tôi đã chạm đến quả vị thứ ba.
156. Sau đó, tôi đã cắt tóc, tôi đã xuất gia sống đời không nhà. Hôm nay, đối với tôi là đêm thứ bảy, kể từ lúc ấy tham ái đã được làm khô héo.”
Trưởng lão ni Anopamā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Anopamā.
55.
157. “Bạch đức Phật, bậc Anh Hùng, đấng Vô Thượng của tất cả chúng sanh, xin kính lễ Ngài, Ngài đã giúp cho con và nhiều người khác giải thoát khỏi khổ đau.
158. Tất cả khổ đau đã được biết toàn diện, nhân tham ái đã được làm khô héo, Đạo Lộ tám chi phần đã được tu tập, sự Tịch Diệt đã được tôi chạm đến.
159. Và trước đây, tôi đã là người mẹ, con trai, người cha, con gái, và bà nội (của Ngài). Trong khi không nhận biết đúng theo bản thể, tôi đã luân hồi không ngừng nghỉ.
160. Bởi vì đức Thế Tôn ấy đã được tôi nhìn thấy, đây là xác thân sau chót (của tôi). Việc luân hồi tái sanh đã được triệt tiêu, giờ đây không còn tái sanh nữa.[11]
161. Tôi nhìn thấy các vị Thinh Văn, có sự nỗ lực tinh tấn, có bản tánh cương quyết, thường xuyên có sự ra sức vững chãi, có sự hợp nhất; điều này là sự lễ bái đến chư Phật.
162. Đúng vậy, vì lợi ích của nhiều người, (hoàng hậu) Māyā đã sanh ra Gotama. Ngài đã xua đi khối đống khổ đau cho những người bị công kích bởi bệnh tật và chết chóc.”
Trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī.
56.
163. “Này Guttā, sau khi lìa bỏ con trai và gia súc yêu quý, (cô có) sự xuất gia với mục đích nào thì cô hãy đeo đuổi chính mục đích ấy, chớ rơi vào sự tác động của tâm.
164. Bị tâm lường gạt, được thích thú ở lãnh địa của Ma Vương, chúng sanh trải qua sự luân hồi trong nhiều kiếp sống, không hiểu biết.
165. Sự ham muốn về các dục, ác tâm, và luôn cả sự nhận thức sai trái về thân, sự bám víu vào giới và nghi thức, và hoài nghi là thứ năm.
166. Này tỳ khưu ni, sau khi từ bỏ những sự ràng buộc có khả năng đưa đến (các cảnh giới) hạng thấp ấy, cô sẽ không trở lại nơi này nữa.
167. Sau khi bỏ đi luyến ái, ngã mạn, vô minh, và loạn động, sau khi cắt đứt những sự ràng buộc, cô sẽ thực hiện việc chấm dứt khổ đau.[12]
168. Sau khi tiêu trừ việc luân hồi tái sanh, sau khi biết toàn diện về việc hiện hữu lần nữa, ngay trong thời hiện tại, không còn cơn đói, cô sẽ sống được an tịnh.”
Trưởng lão ni Guttā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Guttā.
57.
169. “Không đạt được sự an tịnh của ý, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, tôi đã đi ra khỏi trú xá bốn lần, năm lần.[13]
170. Sau khi đi đến gặp vị tỳ khưu ni, tôi đã bày tỏ sự tôn kính rồi đã vấn hỏi. Vị ni ấy đã thuyết giảng cho tôi về (mười tám) giới và (mười hai) xứ.
171. Về bốn Chân Lý cao thượng, các quyền, và các lực, các yếu tố đưa đến giác ngộ, Đạo Lộ tám chi phần đưa đến sự đạt được mục đích cao thượng.
172. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, trong khi làm theo lời chỉ dạy, vào canh thứ nhất của đêm, tôi đã nhớ lại đời sống trước đây.
173. Vào canh giữa của đêm, tôi đã làm trong sạch Thiên nhãn. Vào canh cuối của đêm, tôi đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).[14]
174. Và khi ấy, sau khi thấm nhuần cơ thể với hỷ và lạc, tôi đã an trú. Vào ngày thứ bảy, tôi đã duỗi ra các bàn chân, sau khi đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”
Trưởng lão ni Vijayā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Vijayā.
Nhóm Sáu được chấm dứt.
--ooOoo--
58.
175. “‘Sau khi cầm lấy những cái chày, những người thanh niên giã thóc. Trong khi nuôi dưỡng các con và vợ, những người thanh niên tìm kiếm tài sản.[15]
176. Cô hãy nỗ lực theo lời dạy của đức Phật, sau khi đã làm điều ấy, không phải ân hận. Hãy mau chóng rửa các bàn chân rồi ngồi xuống một bên.[16]
177. Sau khi đã thiết lập tâm được chuyên nhất, khéo được định tĩnh, hãy quán xét các hành là vô ngã, và không phải là tự ngã.’
178. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, lời chỉ dạy của vị ni Paṭācārā, tôi đã rửa sạch hai bàn chân rồi đã ngồi xuống ở một góc.
179. Vào canh thứ nhất của đêm, tôi đã nhớ lại đời sống trước đây. Vào canh giữa của đêm, tôi đã làm trong sạch Thiên nhãn.
180. Vào canh cuối của đêm, tôi đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).[17] Có được ba Minh, tôi đã đứng lên (sau đó đi đến gặp và đã thưa rằng): ‘Các lời chỉ dạy của ni sư đã được thực hành.
181. Tôi sẽ tôn vinh và sống (với ni sư), tựa như chư Thiên cõi Ba Mươi đối với vị Trời Sakka không bị đánh bại ở chiến trường. Tôi có ba Minh, không còn lậu hoặc.’”[18]
Trưởng lão ni Uttarā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttarā.
59.
182. “Sau khi thiết lập niệm, vị tỳ khưu ni, có các quyền đã được tu tập, đã thấu triệt vị thế An Tịnh, sự yên lặng của các pháp hữu vi, sự an lạc.
183. ‘Liên quan đến ai mà nàng cạo đầu? Nàng được nhìn thấy giống như nữ Sa-môn. Nhưng nàng không chấp nhận các tà giáo, tại sao nàng lại ngớ ngẩn thực hành cái này?’
184. ‘Các tà giáo ở bên ngoài Giáo Pháp này thì nương theo các tà kiến, chúng không nhận thức được Giáo Pháp, chúng không rành rẽ về Giáo Pháp.
185. Ở dòng họ Sakya, có đức Phật, bậc không người đối thủ, đã được sanh ra. Ngài đã thuyết giảng cho ta về Giáo Pháp có sự vượt qua hẳn các tà kiến.
186. (Ngài đã thuyết giảng về) Khổ, sự sanh lên của Khổ, sự vượt qua Khổ, và Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.
187. Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, được thích thú ở lời chỉ dạy, ta đã an trú. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.
188. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.’”[19]
Trưởng lão ni Cālā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Cālā.
60.
189. “Có niệm, có nhãn quan, vị tỳ khưu ni, với các quyền đã được tu tập, đã thấu triệt vị thế An Tịnh, (là pháp) không được thực hành bởi những kẻ xấu.
190. ‘Tại sao nàng không chấp nhận sự sanh? Người đã được sanh ra (sẽ) thọ hưởng các dục. Nàng hãy thọ hưởng các sự thích thú trong các dục, chớ có sự tiếc nuối sau này.’
191. ‘Đối với người đã được sanh ra thì có sự chết, sự chặt đứt các tay chân, sự hành quyết, sự giam cầm, và tai họa. Người đã được sanh ra đọa vào khổ đau.
192. Ở dòng họ Sakya, có đức Phật, bậc không người đối thủ, đã được sanh ra. Ngài đã thuyết giảng cho ta về Giáo Pháp có sự vượt qua hẳn sự sanh.[20]
193. (Ngài đã thuyết giảng về) Khổ, sự sanh lên của Khổ, sự vượt qua Khổ, và Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.[21]
194. Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, được thích thú ở lời chỉ dạy, ta đã an trú. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.[22]
195. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.’”[23]
Trưởng lão ni Upacālā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Upacālā.
Nhóm Bảy được chấm dứt.
--ooOoo--
61.
196. Vị tỳ khưu ni, được đầy đủ về giới, khéo được thu thúc ở các giác quan, có thể chứng đắc vị thế An Tịnh có vị ngọt ngào toàn vẹn.
197. ‘Có chư Thiên cõi Đao Lợi, cõi Dạ Ma, và luôn cả cõi Đẩu Suất, chư Thiên cõi Hóa Lạc, và chư Thiên cõi (Tha Hóa) Tự Tại, nàng hãy chú nguyện tâm ở nơi ấy, ở nơi mà nàng đã sống trước đây.’
198. ‘Có chư Thiên cõi Đao Lợi, cõi Dạ Ma, và luôn cả cõi Đẩu Suất, chư Thiên cõi Hóa Lạc, và chư Thiên cõi (Tha Hóa) Tự Tại.
199. (Chư Thiên ấy) tôn vinh bản ngã, không vượt qua bản ngã, đều trôi theo sanh tử thời điểm này đến thời điểm khác, từ cõi này đến cõi khác.
200. Toàn bộ thế giới đều bị đốt cháy, toàn bộ thế giới đều bị rực cháy, toàn bộ thế giới đều bị phát cháy, toàn bộ thế giới đều bị lay động.
201. Đức Phật đã thuyết giảng Giáo Pháp không thể lay động, không thể so sánh, không được thực hành bởi các phàm nhân, tâm của ta đã vô cùng thích thú về Giáo Pháp ấy.
202. Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, được thích thú ở lời chỉ dạy, ta đã an trú. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.[24]
203. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.’”[25]
Trưởng lão ni Sīsūpacālā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sīsūpacālā.
Nhóm Tám được chấm dứt.
--ooOoo--
62.
204. “‘Này Vaḍḍha, con chớ có khao khát về thế gian vào bất cứ lúc nào. Này con trai bé bỏng, con chớ dự phần vào khổ đau lần này lần khác.
205. Này Vaḍḍha, các bậc hiền trí, không còn dục vọng, có các nghi ngờ đã được cắt đứt, có trạng thái mát mẻ, đã đạt đến sự thuần phục, sống một cách thật sự an lạc, không còn lậu hoặc.
206. Này Vaḍḍha, con hãy đeo đuổi đạo lộ đã được các bậc ẩn sĩ ấy thực hành nhằm đạt đến sự nhận thức, nhằm thực hiện việc chấm dứt khổ đau.’
207. ‘Thưa đấng sanh thành, mẹ vô cùng tự tin khi nói điều này với con. Thưa mẹ, con nghĩ rằng tham ái chắc chắn không còn tìm thấy ở nơi mẹ.’
208. ‘Này Vaḍḍha, bất cứ các hành nào là thấp thỏi, cao thượng, hay trung bình, tham ái dầu rất nhỏ, dầu có số lượng rất nhỏ, cũng không tìm thấy ở nơi mẹ.’
209. Trong khi đang tham thiền không bị xao lãng, tất cả các lậu hoặc của tôi đã được cạn kiệt. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.[26]
210. Cũng giống như người có lòng bi mẫn, mẹ tôi quả thật đã vận dụng cây gậy thúc tuyệt vời, (đó là) những câu kệ ngôn gắn liền với mục đích tối hậu.
211. Sau khi lắng nghe lời nói của mẹ, lời nhắc nhở của đấng sanh thành, tôi đã đạt đến sự chấn động trong Giáo Pháp, đưa đến sự an toàn khỏi các ràng buộc.
212. Tôi đây, có sự ra sức, có bản tánh cương quyết, ngày và đêm không biếng nhác, trong khi được người mẹ khích lệ, tôi đã chạm đến sự An Tịnh tối thượng.”
Trưởng lão ni Vaḍḍhamātā (mẹ của Vaḍḍha) đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Vaḍḍhamātā.
Nhóm Chín được chấm dứt.
--ooOoo--
63.
213. Tư cách bạn lành đã được bậc Hiền Trí khen ngợi khi đề cập đến thế gian. Trong khi thân cận với các bạn lành, ngay cả kẻ ngu dốt cũng có thể trở thành người sáng trí.
214. Những người tốt nên được thân cận, như thế trí tuệ tăng trưởng cho những người thân cận. Người thân cận những người tốt có thể thoát khỏi tất cả những nỗi khổ đau.
215. (Người thân cận những người tốt) có thể nhận thức được Khổ, sự sanh lên của Khổ, sự Tịch Diệt, và Đạo Lộ tám chi phần, luôn cả bốn Chân Lý cao thượng.
216. Bản thể người nữ là khổ, (là điều) đã được đấng Điều Ngự Trượng Phu nói đến. Tình trạng có chung chồng cũng là khổ, một số người nữ sanh đẻ lần đầu (cũng là khổ).[27]
217. Những người nữ mang bào thai nghịch tử (nằm sai vị trí) thậm chí còn cắt ở cổ họng, những người có thân hình mảnh mai ăn vào các chất độc, cả hai (mẹ và con) đều gánh chịu các sự bất hạnh.
218. Khi đã gần đến lúc sanh nở, trong khi đang đi (về nhà mẹ), tôi đã nhìn thấy người chồng bị chết. Tôi đã sanh đẻ ở trên đường, khi tôi còn chưa đạt đến căn nhà của mình.[28]
219. (Paṭācārā) người đàn bà khốn khổ có hai con trai đã qua đời, và người chồng đã chết trên đường đi, mẹ, cha, và em trai được thiêu đốt chung một giàn hỏa táng.
220. Này người đàn bà khốn khổ có gia tộc đã bị tiêu tán, khổ đau của nàng đã gánh chịu là vô ngần, và nước mắt của nàng đã được tuôn trào trong nhiều ngàn kiếp sống.
221. Tôi cũng đã nhìn thấy khi ấy, ở giữa bãi tha ma, những mẩu thịt của con trai bị ngấu nghiến (bởi loài thú). Là người nữ có gia tộc đã bị giết chết, bị mọi người quở trách, là góa phụ, tôi đã chứng đắc sự Bất Tử.
222. Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự Bất Tử đã được tôi tu tập, Niết Bàn đã được tôi chứng ngộ; tôi đã nhìn thấy tấm gương Giáo Pháp.
223. Tôi có mũi tên đã được nhổ lên, có gánh nặng đã được đặt xuống, có việc cần làm đã được làm xong. Trưởng lão ni Kisāgotamī, với tâm đã được giải thoát, đã nói lên điều này.”
Trưởng lão ni Kisāgotamī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Kisāgotamī.
Nhóm Mười Một được chấm dứt.
--ooOoo--
64.
224. “Cả hai chúng tôi, mẹ và con gái, đã có chung chồng. Tôi đây đã có sự chấn động, có sự kỳ lạ, có sự nổi da gà.
225. Thật ghê tởm, các dục là không trong sạch, có mùi khó chịu, có nhiều phiền toái, là ở trường hợp chúng tôi, mẹ và con gái, đã là những người vợ có chung chồng.
226. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở các dục, sau khi nhận thấy sự xuất ly là an toàn, tôi đây đã xuất gia, rời nhà sống không nhà.
227. Tôi biết được đời sống trong thời quá khứ, Thiên nhãn đã được trong sạch, trí biết được tâm của người khác và nhĩ giới đã được trong sạch.
228. Thần thông cũng đã được tôi chứng ngộ, sự cạn kiệt của các lậu hoặc đã được tôi đạt đến, sáu Thắng Trí đã được chứng ngộ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.[29]
229. Sau khi đã hóa hiện ra chiếc xe kéo bốn ngựa bằng thần thông, tôi đã đảnh lễ hai bàn chân của đức Phật, đấng Bảo Hộ Thế Gian như thế ấy.
230. ‘Sau khi đi đến thân cây đã khéo trổ hoa ở trên ngọn, nàng đứng ở gốc cây sālā, một mình, và nàng cũng không có người bạn đồng hành nào. Này nàng trẻ tuổi, nàng không sợ hãi bọn người vô lại sao?’[30]
231. ‘Cho dầu một trăm ngàn kẻ vô lại như ngươi có thể tụ tập lại, ta vẫn không nhúc nhích sợi lông, cũng không run rẩy. Này Ma Vương, một mình ngươi thì sẽ làm gì ta?
232. Ta đây sẽ biến mất, hoặc sẽ đi vào bụng của ngươi, hoặc sẽ đứng ở giữa các lông mày (của ngươi), ngươi sẽ không nhìn thấy ta đang đứng (ở đó).
233. Ta có được năng lực về tâm, các nền tảng của thần thông đã khéo được tu tập, sáu Thắng Trí đã được ta chứng ngộ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.
234. Các dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt của chúng. Điều ngươi gọi là sự thích thú trong các dục, điều ấy giờ đây là sự không thích thú đối với ta.[31]
235. Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đã bị đánh bại.’”
Trưởng lão ni Uppalavaṇṇā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Uppalavaṇṇā.
Nhóm Mười Hai được chấm dứt.
--ooOoo--
65.
236. “‘Tôi đã đội nước, vào lúc trời lạnh tôi đã thường xuyên lội xuống nước. Tôi bị sợ hãi vì nỗi lo về hình phạt của những người chủ, bị khổ sở vì nỗi lo về sự thô tháo của lời nói (la mắng).[32]
237. Này người Bà-la-môn, ông sợ hãi điều gì khiến ông đã thường xuyên lội xuống nước? Với các bộ phận của cơ thể đang run rẩy, ông biết sự lạnh là kinh khủng.’
238. ‘Này cô Puṇṇikā quý mến, quả nhiên trong khi cô biết lại còn chất vấn ta là người đang thực hiện việc tốt và đang cản ngăn điều ác đã làm.
239. Và người nào già cả hay còn trẻ mà thực hiện việc làm ác, người ấy nhờ vào việc tắm gội bằng nước cũng được thoát khỏi nghiệp ác.’
240. ‘Ai đã nói cho ông điều này, kẻ không biết nói cho kẻ không biết, cái gọi là nhờ vào việc tắm gội bằng nước mà được thoát khỏi nghiệp ác?
241. (Nếu vậy) chắc hẳn tất cả các con ếch, các con rùa, các con ba ba, các con cá sấu, và các loài thủy tộc khác đều sẽ đi đến cõi Trời.
242. Những kẻ giết cừu, những kẻ giết heo, những ngư phủ, những người bẫy thú, những kẻ trộm cướp, những người đao phủ, và những kẻ khác có việc làm ác, những người ấy nhờ vào việc tắm gội bằng nước cũng được thoát khỏi nghiệp ác.
243. Nếu những con sông này đã mang đi việc ác đã được ông làm trước đây, chúng cũng có thể mang đi những phước thiện, vì thế ông không có gì.
244. Này người Bà-la-môn, điều nào khiến ông sợ hãi rồi đã thường xuyên lội xuống nước, này người Bà-la-môn, ông chớ làm chính cái điều ấy, chớ để cái lạnh hủy hoại thân thể của ông.’
245. ‘Này cô gái quý mến, cô đã đưa tôi, kẻ đã thực hành đạo lộ sai trái, vào con đường thánh thiện khỏi việc tắm gội bằng nước, tôi biếu cô tấm vải choàng này.’
246. ‘Hãy để tấm vải choảng cho chính ông, tôi không thích tấm vải choàng. Nếu ông sợ khổ, nếu khổ không được ông ưa thích, ...
247. ... ông chớ thực hiện việc làm ác, lộ liễu hay khuất lấp. Và nếu ông sẽ thực hiện hoặc đang thực hiện việc làm ác, ...
248. ... đối với ông, sự thoát khỏi khổ đau là không có, cho dầu ông đang cố tình chạy trốn. Nếu ông sợ khổ, nếu khổ không được ông ưa thích, ...
249. ... ông hãy đi đến nương tựa vào đức Phật, Giáo Pháp và Hội Chúng của những vị như thế ấy, hãy thọ trì các giới; việc ấy sẽ đem lại lợi ích cho ông.’
250. ‘Tôi đi đến nương tựa vào đức Phật, Giáo Pháp và Hội Chúng của những vị như thế ấy, tôi thọ trì các giới; việc ấy sẽ đem lại lợi ích cho tôi.
251. Trước đây, tôi đã là thân quyến của Phạm Thiên. Hôm nay, tôi là vị Bà-la-môn thật sự. Có ba Minh, đã đạt được sự hiểu biết, và có các sự tốt lành, tôi là người đã hoàn tất việc tắm.’”
Trưởng lão ni Puṇṇā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Puṇṇā.
Nhóm Mười Sáu được chấm dứt.
--ooOoo--
66.
252. “Các sợi tóc của tôi đã là màu đen giống như màu của loài ong, có đầu ngọn bị xoắn lại. Bởi tuổi già, chúng trở thành tương tự như những thớ sợi của vỏ cây gai; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
253. Cái đầu của tôi, đầy những bông hoa, được tỏa hương tựa như cái hộp thơm. Bởi tuổi già, nó trở nên có mùi tương tự như lông của loài chó; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
254. Tựa như khu rừng rậm khéo được trồng trọt, (đầu tóc) được trông tuyệt đẹp với những đầu ngọn tóc được tách rời ra nhờ vào lược và kim găm. Bởi tuổi già, nó trở nên lơ thơ chỗ này chỗ nọ; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
255. Được điểm tô với vàng ở chùm tóc đen, được trang điểm với những bím tóc xinh, (đầu tóc) trông tuyệt đẹp. Bởi tuổi già, nó bị làm trở thành cái đầu bị sói; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
256. Tựa như đường nét được khéo tạo ra bởi người thợ vẽ, cặp lông mày xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp. Bởi tuổi già, chúng bị giăng ngang với những nếp nhăn; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
257. Đôi mắt dài, có màu đen tuyền, đã là rực rỡ, vô cùng xinh xắn giống như ngọc ma-ni. Bởi tuổi già, chúng bị tàn phá, không còn tuyệt đẹp; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
258. Và lỗ mũi tựa như đỉnh chóp thanh tú, trông tuyệt đẹp vào thời điểm còn rất trẻ. Bởi tuổi già, nó tựa như bị quắt lại; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
259. Hai dái tai của tôi trông tuyệt đẹp, tựa như vòng xuyến khéo được gia công, khéo được hoàn thành. Bởi tuổi già, chúng bị giăng ngang với những nếp nhăn; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
260. Những cái răng xinh xắn của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, tựa như nụ hoa chuối. Bởi tuổi già, chúng bị sứt mẻ và ngả màu vàng; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
261. Tôi đã thỏ thẻ giọng ngọt ngào tựa như con chim cu cu có sự di chuyển ở trong khu rừng lớn và rừng thưa. Bởi tuổi già, giọng ấy đã bị ngập ngừng chỗ này chỗ nọ; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
262. Cái cổ xinh của tôi trông vô cùng xinh đẹp, tựa như vỏ sò (có ba ngấn) mềm mại, khéo được chùi bóng. Bởi tuổi già, nó trở nên bị đứt đoạn và võng xuống; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
263. Hai cánh tay xinh của tôi trông vô cùng xinh đẹp, cả hai giống y như thanh gài cửa tròn trịa. Bởi tuổi già, chúng trở thành giống như (những cành) cây hoa kèn bị khô héo; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
264. Hai bàn tay xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, được tô điểm với chiếc nhẫn thanh nhã làm bằng vàng. Bởi tuổi già, chúng trở thành giống như rễ củ (cà rốt); lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
265. Bộ ngực nhỏ xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, cả hai đều đầy đặn, tròn trịa, liền nhau, dựng đứng. Bởi tuổi già, chúng trở thành lủng lẳng giống như hai túi da hết nước; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
266. Thân thể xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, tựa như lát vàng khéo được đánh bóng. Bởi tuổi già, nó bị tràn lan với các nếp nhăn li ti; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
267. Cặp đùi xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, cả hai tương tự như cái vòi của loài voi. Bởi tuổi già, chúng trở thành giống như các ống tre; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
268. Hai ống chân xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, được điểm tô với các vòng kiềng thanh nhã làm bằng vàng. Bởi tuổi già, chúng trở thành tựa như các cọng thân của cây mè; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
269. Hai bàn chân xinh của tôi trước đây trông tuyệt đẹp, cả hai tương tự như được phủ đầy bông gòn. Bởi tuổi già, chúng bị nứt nẻ, có nếp nhăn; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.
270. Thân xác này đã trở nên như thế này, già cỗi, nơi chứa đựng nhiều khổ đau, ngôi nhà cũ kỹ bị rơi xuống các lớp vữa hồ; lời nói của bậc Tuyên Thuyết Sự Thật là không sai khác.”
Trưởng lão ni Ambapālī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Ambapālī.
67.
271. “‘Này con gái quý mến, con nằm ngủ (nhắc đến): Các vị Sa-môn. Con thức dậy (nhắc đến): Các vị Sa-môn. Con ngợi ca (các đức tính của) chỉ riêng các vị Sa-môn, chắc hẳn con sẽ trở thành vị nữ Sa-môn.[33]
272. Con dâng cúng đến các vị Sa-môn cơm ăn và nước uống nhiều lắm. Này Rohiṇī, giờ đây cha hỏi: Vì sao các vị Sa-môn được con quý mến?
273. Họ không ưa thích công việc, lười biếng, sống nương vào sự bố thí của người khác, có sự mong cầu, ưa thích đồ ngon ngọt. Vì sao các vị Sa-môn lại được con quý mến?’
274. ‘Thưa cha, đúng là lâu nay cha hỏi con về các vị Sa-môn. Con sẽ ngợi ca với cha về trí tuệ, giới hạnh, và sự nỗ lực của những vị ấy.
275. Ưa thích công việc, không lười biếng, là những người làm công việc tối thắng, các vị dứt bỏ luyến ái, sân hận; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
276. Các vị giũ bỏ ba gốc rễ của việc ác, có các việc làm trong sạch, tất cả các việc ác của những vị ấy đã được dứt bỏ; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
277. Thân nghiệp của các vị ấy là thanh tịnh, và khẩu nghiệp là tương tự như thế, ý nghiệp của các vị ấy là thanh tịnh; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
278. Không bợn nhơ, trong trắng như là vỏ sò và ngọc trai, trong trắng bên trong và bên ngoài, được đầy đủ với các pháp trong trắng; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
279. Có sự nghe nhiều, có sự ghi nhớ về Giáo Pháp, thánh thiện, sống theo (đường lối của) Giáo Pháp, các vị thuyết giảng về ý nghĩa và Giáo Pháp; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
280. Có sự nghe nhiều, có sự ghi nhớ về Giáo Pháp, thánh thiện, sống theo (đường lối của) Giáo Pháp, (các vị) có tâm chuyên nhất, có niệm; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
281. Có sự đi đến nơi xa vắng, có lời nói đúng đắn, không tự kiêu, các vị nhận biết sự chấm dứt khổ đau; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
282. Khi các vị rời khỏi ngôi làng nào, các vị không nhìn ngắm bất cứ vật gì; các vị ra đi hiển nhiên không có sự trông ngóng; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
283. Các vị không cất chứa vật sở hữu ở trong kho, ở trong chum, ở trong giỏ; các vị có sự tầm cầu vật thực đã được nấu chín; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
284. Các vị ấy không cất giữ vàng khối, vàng ròng, bạc nén; các vị duy trì sự sống với vật trong hiện tại; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.
285. Đã được xuất gia từ các gia tộc khác nhau, từ các xứ sở khác nhau, các vị quý mến lẫn nhau; vì thế các vị Sa-môn được con quý mến.’
286. ‘Này con gái quý mến, quả thật là điều tốt đẹp cho chúng ta! Này Rohiṇī, con đã được sanh ra ở gia đình! Con có niềm tin và sự tôn kính sắc bén đối với đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng.
287. Chính con nhận biết thửa ruộng phước vô thượng này. Và các vị Sa-môn ấy cũng (sẽ) nhận lãnh vật cúng dường của chúng ta, bởi vì vật hiến dâng dồi dào của chúng ta sẽ được thiết lập cho các vị Sa-môn.’
288. ‘Nếu cha sợ khổ, nếu khổ không được cha ưa thích, cha hãy đi đến nương tựa vào đức Phật, Giáo Pháp và Hội Chúng của những vị như thế ấy, hãy thọ trì các giới; việc ấy sẽ đem lại lợi ích cho cha.’[34]
289. ‘Tôi đi đến nương tựa vào đức Phật, Giáo Pháp và Hội Chúng của những vị như thế ấy, tôi thọ trì các giới; việc ấy sẽ đem lại lợi ích cho tôi.
290. Trước đây, tôi đã là thân quyến của Phạm Thiên. Bây giờ, tôi đây là vị Bà-la-môn. Tôi có ba Minh và có các sự tốt lành, đã đạt được sự hiểu biết, và tôi là người đã hoàn tất việc tắm.’”
Trưởng lão ni Rohiṇī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Rohiṇī.
68.
291. “‘Trước đây, người ấy đã là vị (đạo sĩ) có gậy ở bàn tay. Bây giờ, người ấy là thợ săn thú rừng. Vì tham ái, người ấy đã không thể đi đến bờ kia từ đầm lầy ghê rợn.[35]
292. Trong khi nghĩ rằng tôi là vô cùng cởi mở, Cāpā đã chọc giỡn đứa con trai. Sau khi cắt đứt sự trói buộc của Cāpā, tôi sẽ xuất gia lại lần nữa.’
293. ‘Ôi vị đại anh hùng, xin chàng chớ giận thiếp! Ôi vị đại hiền trí, xin chàng chớ giận thiếp! Bởi vì sự thanh tịnh không có cho người bị sự giận dữ chế ngự, từ đâu mà có được sự khổ hạnh?’
294. ‘Tôi sẽ rời khỏi Nālā. Ai sẽ sống ở nơi đây, tại Nālā, trong khi cô, với sắc đẹp nữ nhân, trói buộc các Sa-môn có cuộc sống theo Giáo Pháp?’
295. ‘Chàng Kāḷa ơi, chàng hãy đến, chàng hãy quay về, chàng hãy thọ hưởng các dục lạc giống như trước đây. Thiếp và những người nào là thân quyến của thiếp sẽ chịu sự sai khiến của chàng.’
296. ‘Chỉ cần một phần tư của điều ấy, giống như lời nàng nói với ta, điều ấy quả thật là quý hóa cho người đàn ông đã say đắm nàng.’
297. ‘Chàng Kāḷa ơi, (thiếp) tựa như chồi non của cây takkārī đã được đơm hoa ở trên đỉnh núi, tựa như giống dây leo dāḷima đã được nở rộ hoa, tựa như cây hoa kèn ở bên trong hòn đảo.
298. (Thiếp) có tay chân được bôi trầm hương màu vàng, mặc loại vải Kāsī thượng hạng, trong khi thiếp đây đang có sắc đẹp, bởi vì ai chàng nỡ bỏ thiếp ra đi?’
299. ‘Giống y như người thợ bẫy chim muốn bắt con chim, nàng muốn trói buộc ta bằng sắc đẹp hấp dẫn. Nàng sẽ không cám dỗ được ta.’
300. ‘Chàng Kāḷa ơi, còn kết quả đứa con trai này của thiếp là do chàng đã tạo ra. Trong khi thiếp đây có con trai, bởi vì ai chàng nỡ bỏ thiếp ra đi?’
301. ‘Các bậc có trí tuệ lìa bỏ những đứa con trai, rồi các thân quyến, sau đến tài sản. Các bậc đại anh hùng xuất gia, tựa như con voi đã ra đi sau khi giật đứt sự trói buộc.’
302. ‘Giờ đây, bằng cây gậy hoặc bằng con dao, thiếp có thể làm đứa con trai này của chàng té ngã ở trên mặt đất. Vì sự lo âu cho con trai, chàng không ra đi.’
303. ‘Này cô nàng tồi tệ, nếu nàng cho đứa con trai đến những con chó rừng, đến những con chó hoang, do việc đã làm đối với đứa con trai, nàng cũng sẽ không làm cho ta quay trở lại.’
304. ‘Đã thế thì thưa bậc đạo hạnh, giờ đây thì hãy như vậy đi. Này chàng Kāḷa, chàng sẽ đi đâu? Làng mạc, thị trấn , thành phố , các kinh đô nào?’
305. ‘Trước đây, bọn ta đã có đồ chúng, không phải là các Sa-môn, nhưng nghĩ là Sa-môn. Bọn ta đã lang thang từ làng này đến làng khác, đến các thành phố, đến các kinh đô.
306. Bởi vì đức Phật Thế Tôn ấy, ở cạnh dòng sông Nerañjarā, thuyết giảng Giáo Pháp nhằm việc dứt bỏ tất cả khổ đau cho các sanh linh. Ta sẽ đi đến gặp vị ấy; vị ấy sẽ là bậc Đạo Sư của ta.’
307. ‘Chàng nên thuật lại với đấng Bảo Hộ Thế Gian vô thượng về sự kính lễ bây giờ (của thiếp), và sau khi đã hướng bên phải nhiễu quanh, chàng nên trình lên vật cúng dường (của thiếp).’
308. ‘Điều ấy quả là khả dĩ đối với bọn ta, giống như lời nàng nói với ta. Ta sẽ thuật lại với đấng Bảo Hộ Thế Gian vô thượng về sự kính lễ bây giờ (của nàng), và sau khi đã hướng bên phải nhiễu quanh, ta sẽ trình lên vật cúng dường (của nàng).’
309. Ngay sau đó, Kāḷa ra đi về phía dòng sông Nerañjarā. Vị ấy đã nhìn thấy đấng Toàn Giác đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử, ...
310. ... về Khổ, về sự sanh lên của Khổ, về sự vượt qua Khổ, và về Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.[36]
311. Sau khi đảnh lễ hai bàn chân của Ngài, sau khi hướng bên phải nhiễu quanh Ngài, sau khi trình lên (vật cúng dường) của Cāpā, vị ấy đã xuất gia sống đời không nhà. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
Trưởng lão ni Cāpā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Cāpā.
69.
312. “‘Này bà quý mến, trước đây trong khi để cho các người con trai đã chết bị nhai ngấu nghiến (bởi loài thú), bà quả thật vô cùng buồn bực ban ngày lẫn ban đêm.
313. Này nữ Bà-la-môn Vāseṭṭhī,[37] hôm nay sau khi đã để cho tất cả một trăm người con trai bị nhai ngấu nghiến, vì lý do gì mà bà đây không buồn bực nhiều?’
314. ‘Này ông Bà-la-môn, nhiều trăm đứa con trai và nhiều trăm tập thể thân quyến của tôi và của ông trong thời quá khứ đã bị để cho nhai ngấu nghiến (bởi loài thú).
315. Sau khi biết được lối thoát ra khỏi sự sống và sự chết, tôi đây không sầu muộn, không khóc lóc, và cũng đã không còn buồn bực nữa.’
316. ‘Này Vāseṭṭhī, bà nói lời như thế quả thật là phi thường! Sau khi biết Giáo Pháp của ai mà bà nói lời vững chãi như thế?’
317. ‘Này ông Bà-la-môn, đấng Toàn Giác ấy, ở cạnh thành phố Mithilā, đã thuyết giảng Giáo Pháp nhằm việc dứt bỏ tất cả khổ đau cho các sanh linh.
318. Này ông Bà-la-môn, sau khi lắng nghe Giáo Pháp không có mầm mống tái sanh của vị A-la-hán ấy, tại nơi ấy, với Chánh Pháp đã được nhận thức, tôi đã xua tan nỗi sầu muộn về những đứa con trai.’
319. ‘Tôi đây cũng sẽ đi về phía thành phố Mithilā. Có lẽ đức Thế Tôn ấy có thể giúp cho tôi giải thoát khỏi tất cả khổ đau.’ Vị Bà-la-môn đã nhìn thấy đức Phật, bậc đã được hoàn toàn giải thoát, không còn mầm mống tái sanh.
320. Đấng Hiền Trí, bậc đã đi đến bờ kia của khổ đau, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho vị (Bà-la-môn) ấy về Khổ, về sự sanh lên của Khổ, về sự vượt qua Khổ, và về Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.[38]
321. Tại nơi ấy, với Chánh Pháp đã được nhận thức, vị ấy đã tự mình thích thú với việc xuất gia. Sau ba đêm, Sujāta đã chạm đến ba Minh.
322. ‘Này người đánh xe, hãy đến. Ngươi hãy đi, hãy đưa cỗ xe này về. Hãy chúc bà Bà-la-môn được mạnh khỏe (và nói rằng): Giờ đây, ông Bà-la-môn đã xuất gia. Sau ba đêm, Sujāta đã chạm đến ba Minh.’
323. Và sau đó, người đánh xe đã nhận lấy cỗ xe và một ngàn (đồng tiền) rồi đã chúc bà Bà-la-môn được mạnh khỏe (và nói rằng): ‘Giờ đây, ông Bà-la-môn đã xuất gia. Sau ba đêm, Sujāta đã chạm đến ba Minh.’
324. ‘Này người đánh xe, sau khi biết được ông Bà-la-môn có được ba Minh, tôi cho ông một bình bát đầy với cỗ xe đã thắng ngựa này, và luôn cả một ngàn (đồng tiền).’[39]
325. ‘Thưa bà Bà-la-môn, hãy để cỗ xe đã thắng ngựa này và luôn cả một ngàn (đồng tiền) lại cho chính bà. Tôi cũng sẽ xuất gia trong sự chứng minh của bậc có trí tuệ cao quý.’
335. Ngài là đức Phật. Ngài là bậc Đạo Sư. Bạch đấng Bà-la-môn, con là người con gái chính thống của Ngài, đã được sanh ra từ miệng, có phận sự đã làm xong, không còn lậu hoặc.’
336. ‘Này vị ni hiền thiện, cô đây có việc đã đi đến tốt đẹp, do đó cô có việc đã đi đến không xấu xa. Bởi vì những người đã được thuần phục đi đến như vậy, đã được đảnh lễ hai bàn chân của bậc Đạo Sư, có luyến ái đã được xa lìa, không bị ràng buộc, có phận sự đã làm xong, không còn lậu hoặc.’”
Trưởng lão ni Sundarī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sundarī.
70.
337. Tôi đã được nghe Giáo Pháp trước đây lúc còn trẻ tuổi, có y phục tinh khiết. Tôi đây, không bị xao lãng, đã có sự lãnh hội về các Sự Thật.
338. Nhờ vậy, tôi đã đạt đến sự không thích thú lớn lao về tất cả các loại dục. Sau khi nhìn thấy nỗi sợ hãi về bản ngã, tôi ao ước chỉ mỗi việc xuất ly.
339. Tôi đã lìa bỏ đám đông thân quyến, các nô lệ và những người hầu, các làng mạc ruộng đất phì nhiêu, các vật đáng yêu đã được vui thích.
340. Sau khi dứt bỏ của cải không phải là ít, tôi đã xuất gia. Với niềm tin như thế, tôi đã xuất ly ở trong Chánh Pháp khéo được công bố. Việc này[40] là không thích đáng đối với tôi, bởi vì tôi ước nguyện trạng thái không sở hữu.
341. Người nào đã quăng bỏ vàng bạc không nên tiếp nhận trở lại. Bạc hay vàng không đưa đến sự giác ngộ, không đưa đến sự thanh tịnh. Việc này là không thích hợp với Sa-môn, việc này không là tài sản thánh thiện.
342. Việc này là lòng tham, là sự say đắm, sự mê muội, sự tăng trưởng nhơ bẩn, có sự nguy hiểm, có nhiều phiền toái, và ở đây không có sự vững chắc, bền lâu.
343. Ở đây, loài người bị tham đắm, và bị xao lãng, có tâm ý bị ô nhiễm. Bị đối chọi lẫn nhau, những kẻ phàm phu gây nên sự xung đột.
344. Sự giết chóc, giam cầm, tai họa, mất mát, sầu muộn, than vãn, nhiều sự bất hạnh được nhìn thấy đối với những người bị đắm chìm trong các dục.
345. Các người là thân quyến, tại sao lại lôi kéo tôi đây vào trong các dục, như là những kẻ thù vậy? Các người phải biết rằng tôi đã được xuất gia, có sự nhìn thấy nỗi sợ hãi trong các dục.
346. Các lậu hoặc không được cạn kiệt nhờ vào vàng khối hay vàng ròng. Các dục là những kẻ thù, những kẻ giết người, là đối nghịch, là những sự trói buộc vào các mũi tên (luyến ái, sân hận, si mê).
347. Các người là thân quyến, tại sao lại lôi kéo tôi đây vào trong các dục, như là những kẻ thù vậy? Các người phải biết rằng tôi đã được xuất gia, đầu cạo, trùm lên y hai lớp.
348. Đồ ăn do đã đứng (chờ đợi), sự khất thực, và y may bằng vải quăng bỏ, việc này quả là thích hợp với tôi, là (những) vật nâng đỡ cho người sống không nhà.
349. Các dục, thuộc về cõi trời và thuộc về loài người, đã bị chối từ bởi các vị đại ẩn sĩ. Ở chốn an toàn, các vị ấy đã được hoàn toàn giải thoát, các vị ấy đã đạt đến sự an lạc không bị dao động.
350. Tôi đây đã tiếp xúc với các dục, chỗ nương tựa ở nơi chúng không được tìm thấy. Các dục là những kẻ thù, những kẻ giết người, những sự khổ đau, tương tự như những đống lửa.
351. (Các dục) ấy là sự trở ngại, là nỗi sợ hãi, có sự phá hoại, có gai nhọn. Sự ham muốn là vô cùng khập khiễng, là sự bôi bẩn, là nguyên nhân lớn tạo ra sự mê muội.
352. Các dục là sự khuấy rối, có dáng vóc ghê rợn, tương tự cái đầu con rắn; những kẻ nào là ngu dốt, bị mù lòa, những kẻ phàm phu thì ưa thích.
353. Bởi vì bị gắn bó với đám lầy của các dục, nhiều người ngu dốt ở thế gian không biết về việc chấm dứt sanh tử.
354. Vì nguyên nhân các dục, nhiều người, quả nhiên bằng nhiều lối, thực hành con đường dẫn đến cảnh giới khổ đau, đem lại bệnh tật cho bản thân.
355. Như vậy, các dục là sự sản sanh ra kẻ thù, là sự thiêu đốt, liên quan đến phiền não, là mồi nhử của thế gian cần được buộc trói lại, là sự trói buộc vào cái chết.
356. Các dục là (nguyên nhân tạo ra) các sự điên cuồng, các sự tâng bốc, các sự kích động của tâm, là lưới bẫy đã được giăng ra bởi Ma Vương, đem lại phiền não cho các chúng sanh.
357. Các dục có những điều bất lợi vô hạn, có nhiều khổ đau, là các chất độc mạnh, có ít khoái lạc, là những yếu tố gây nên khuấy rối, có sự tiêu diệt các thành phần trong sạch.
358. Sau khi đã gây nên điều bất hạnh như thế ấy, có nguyên nhân là các dục, tôi sẽ không quay trở lại việc ấy nữa, luôn luôn thỏa thích Niết Bàn.
359. Sau khi vượt qua sự khuấy rối của các dục, có sự mong mỏi trạng thái mát mẻ, không bị xao lãng, tôi sẽ an trú trong sự cạn kiệt các điều ràng buộc.
360. Tôi sẽ đi theo Đạo Lộ không có sầu muộn, xa lìa luyến ái, an toàn, thánh thiện, có tám chi phần, thẳng tắp ấy, nhờ nó mà các bậc đại ẩn sĩ đã được vượt qua.
361. ‘Các vị hãy nhìn xem Subhā này, con gái người thợ rèn, đã đứng vững ở trong Giáo Pháp. Sau khi tiến đến sự không còn dục vọng, nàng tham thiền ở cội cây.[41]
362. Đã được xuất gia đến hôm nay là ngày thứ tám, có niềm tin, có sự chói sáng của Chánh Pháp, được hướng dẫn bởi vị ni Uppalavaṇṇā, nàng có ba Minh, có sự chiến thắng Thần Chết.
363. Nàng đây là người (nô lệ đã được) tự do, không còn nợ nần, là vị tỳ khưu ni, có các giác quan đã được tu tập, đã tách rời mọi điều ràng buộc, có phận sự đã làm xong, không còn lậu hoặc.’
364. Vị chúa tể của các sanh linh Sakka, cùng với hội chúng chư Thiên, bằng thần thông đã đi đến gặp và lễ bái Subhā, con gái người thợ rèn.”
Trưởng lão ni Subhā, con gái người thợ rèn, đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Subhā, con gái người thợ rèn.
Nhóm Hai Mươi được chấm dứt.
--ooOoo--
71.
365. “Trong khi vị tỳ khưu ni Subhā đang đi đến khu vườn xoài đáng yêu của Jīvaka, có kẻ vô lại đã cản ngăn nàng. Subhā đã nói với gã ấy điều này:
366. ‘Này ông, tôi đã làm điều gì xúc phạm đến ông, mà ông đứng cản ngăn tôi? Bởi vì việc người nam đụng chạm đến người nữ xuất gia là không được phép.
367. Điều học này đã được bậc Thiện Thệ thuyết giảng trong Giáo Pháp khả kính của bậc Đạo Sư. Tôi là người nữ có bản thể thanh tịnh, không nhơ bẩn, tại sao ông đứng cản ngăn tôi?
368. Ông có tâm bị nhiễu loạn, còn tôi không bị nhiễu loạn, ông có sự luyến ái, còn tôi có sự luyến ái đã được xa lìa, không nhơ bẩn, có tâm ý đã được giải thoát về mọi lãnh vực, tại sao ông đứng cản ngăn tôi?’
369. ‘Nàng trẻ trung và không xấu xa, việc xuất gia sẽ làm điều gì cho nàng? Nàng hãy quăng bỏ y ca-sa, hãy đến, chúng ta hãy vui thú ở khu rừng đã được trổ hoa.
370. Các cây cối, vươn lên với bụi phấn của những bông hoa, tỏa ra khắp nơi mùi hương ngọt ngào. Tháng đầu xuân là mùa hoan lạc; nàng hãy đến, chúng ta hãy vui thú ở khu rừng đã được trổ hoa.
371. Các cây cối với những đỉnh chóp đã được đơm bông tựa như đang di chuyển đến (mỗi khi) được lay động bởi gió. Sẽ có sự hứng thú gì cho nàng, nếu nàng một mình đi sâu vào trong khu rừng?
372. Nàng không bạn đồng hành muốn đi vào khu rừng lớn, vắng vẻ, có sự kinh hoàng, được lai vãng bởi các bầy thú dữ, bị khuấy động bởi những con voi cái động cỡn với những con voi đực.
373. Nàng đi tới lui tựa như con búp bê làm bằng vàng, tựa như nàng tiên ở vườn hoa Cittaratha.[42] Ôi tuyệt thế giai nhân, nàng chói sáng với các loại vải Kāsī tinh tế, bóng láng.
374. Ôi người có đôi mắt dịu dàng của loài nhân điểu, ta có thể chiều theo sự sai bảo của nàng nếu chúng ta chung sống ở bên trong khu rừng, bởi vì không có sanh linh nào đáng yêu hơn nàng.
375. Nếu nàng sẽ làm theo lời nói của ta, được an vui, nàng hãy đến, hãy ngụ ở trong nhà, với việc cư ngụ ở trong sự an toàn của tòa lâu đài, có những người nữ làm công việc hầu hạ nàng.
376. Hãy mặc vào các tấm vải Kāsī tinh tế, hãy trưng diện tràng hoa và vật thoa. Ta sẽ tạo ra cho nàng nhiều nữ trang các loại làm bằng vàng, ngọc ma-ni, và ngọc trai.
377. Nàng hãy ngự lên chiếc giường ngủ vô cùng quý giá, có màn che được giặt sạch bụi bặm, xinh đẹp, được trải lên bằng lớp nệm lông thú, mới tinh, được trang trí bằng gỗ trầm có hương thơm ngát.
378. Giống như đóa sen xanh kia, được vươn lên từ trong nước, được thân cận với phi nhân, tương tự như vậy với việc thực hành Phạm hạnh, nàng sẽ đi đến tuổi già khi các phần thân thể còn thuộc về riêng mình.’
379. ‘Đối với ông, ở đây, ở cái thân xác có bản chất tan rã, chứa đầy các vật ghê tởm, làm cho các bãi tha ma phát triển, vật gì được xem là cốt lõi mà sau khi nhìn thấy vật ấy thì ông mất hồn và nhìn đắm đuối?’
380. ‘Đôi mắt (của nàng) tựa như (cặp mắt) của loài nai cái, tựa như (cặp mắt) của nữ nhân điểu ở trong khu rừng. Sau khi nhìn theo đôi mắt của nàng, niềm thích thú dục tình của ta gia tăng thêm nữa.
381. (Đôi mắt của nàng) giống như chóp đỉnh của đóa sen xanh ở trên khuôn mặt tựa như vàng không vết bẩn của nàng. Sau khi nhìn theo đôi mắt của nàng, mức độ dục tình của ta gia tăng thêm nữa.
382. Hỡi người có lông mi dài, hỡi người có cái nhìn trong trắng, cho dầu nàng đi xa, ta (sẽ) nhớ (nàng). Hỡi người có đôi mắt dịu dàng của loài nhân điểu, bởi vì không có cặp mắt nào đáng yêu hơn cặp mắt của nàng.’
383. ‘Ông muốn đi vào con đường sái quấy, ông muốn tầm cầu mặt trăng làm đồ chơi, ông muốn nhảy qua ngọn núi Meru, (khi) ông đeo đuổi người con của đức Phật.
384. Thậm chí ở thế gian luôn cả chư Thiên, giờ đây không có sự luyến ái nào có thể hiện hữu ở ta. Ta cũng không biết sự ái luyến ấy là loại nào một khi nó đã bị tiêu diệt tận gốc rễ bởi Đạo Lộ (thánh thiện).
385. (Sự luyến ái) tựa như (tàn lửa) được văng ra từ chậu than hồng, tựa như bát chất độc đã được làm cho tiêu tán. Ta cũng không biết sự ái luyến ấy là loại nào một khi nó đã bị tiêu diệt tận gốc rễ bởi Đạo Lộ (thánh thiện).
386. Đối với người nữ nào, (năm uẩn này) chưa được quán xét hay là bậc Đạo Sư chưa được phụng sự, ông hãy đi quyến rũ người nữ như thế ấy. (Nếu quyến rũ) con người đã nhận biết này, ông đây (sẽ) bị khốn khổ.
387. Bởi vì khi bị mắng nhiếc hay được lễ bái, khi có sự an lạc hay khổ đau, niệm của tôi đều được thiết lập. Sau khi biết rằng: ‘Pháp bị tạo tác là không tốt đẹp,’ tâm của tôi không bám víu vào bất cứ nơi nào.
388. Tôi đây là nữ đệ tử của bậc Thiện Thệ, có sự di chuyển bằng chiếc xe Đạo Lộ tám chi phần, có mũi tên đã được nhổ lên, không còn lậu hoặc, đã được đi đến căn nhà trống vắng, tôi thỏa thích.
389. Bởi vì tôi đã nhìn thấy những con búp bê khéo được tô màu, hoặc những con rối bằng gỗ, được buộc chặt bằng những sợi dây và những thanh gỗ, nhảy múa theo nhiều kiểu.
390. Khi (những) sợi dây và thanh gỗ ấy được lấy ra, được tháo rời, được gỡ bỏ, được phân tán, đã được làm thành mảnh vụn, không thể tìm ra, trong trường hợp ấy thì tâm có thể trú vào cái gì?
391. Tương tự như thế ấy, các phần thân thể của tôi không vận hành nếu thiếu đi các pháp ấy (đất, nước, v.v...); (cơ thể) không vận hành nếu thiếu đi các phần (tay, chân, v.v...), trong trường hợp ấy thì tâm có thể trú vào cái gì?
392. Giống như ông đã nhìn thấy bức tranh vẽ (hình người) được bôi màu vàng, được tạo ra ở bức tường, cái nhìn của ông về cái (hình người) ấy đã bị bóp méo, cái tưởng về con người (đứng ở bức tường) là không có ý nghĩa.
393. Tựa như ảo ảnh được tạo ra ở phía trước, tựa như cái cây bằng vàng ở trong giấc mơ, tựa như sự phô bày hình thức ở giữa đám người, này kẻ mù lòa, ông đi theo cái không thật.
394. (Con mắt) tựa như viên bi tròn được đặt vào cái hốc, có cái bong bóng ở chính giữa cùng với nước mắt, chất ghèn được tiết ra ở nơi ấy, các phần tử của con mắt được xoay chuyển theo nhiều lối.’
395. Với tâm ý không luyến tiếc, vị ni có khuôn mặt dễ thương, đã móc lấy (con mắt), và đã không tiếc nuối (nói rằng): ‘Này, ông hãy mang đi con mắt cho ông đi,’ đồng thời đã trao con mắt cho gã đàn ông ấy.
396. Liền khi ấy sự luyến ái của gã ấy đã ngưng hẳn, và tại nơi ấy gã đã xin vị ni thứ lỗi: ‘Thưa vi ni thực hành Phạm hạnh, có thể tốt lành được chăng? Việc như thế này sẽ không tái diễn.
397. Sau khi xúc phạm con người như thế này, tựa như đã ôm lấy ngọn lửa cháy bùng, giống như đã cầm lấy nọc độc của con rắn. Còn có thể tốt lành được chăng? Xin hãy thứ lỗi cho tôi.’
398. Và đã được tự do lìa khỏi gã ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp đức Phật cao quý. Sau khi nhìn thấy tướng trạng phước báu cao quý, con mắt đã trở nên giống như tình trạng trước đây.”
Trưởng lão ni Subhā ngụ ở vườn xoài của Jīvaka đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Subhā ngụ ở vườn xoài của Jīvaka.
Nhóm Ba Mươi được chấm dứt.
--ooOoo--
72.
399. Ở thành phố có tên của loài hoa Pāṭaliputta, nơi trong lành nhất ở trên trái đất, có hai vị tỳ khưu ni có đức hạnh, thuộc dòng dõi gia tộc Sakya.
400. Trong số đó, một vị là Isidāsī, và vị thứ nhì là trưởng lão ni Bodhī; (cả hai) đầy đủ giới hạnh, thích thú việc tham thiền về các loại thiền, có sự nghe nhiều, có các phiền não đã được giũ bỏ.
401. Hai vị ni ấy, sau khi đi khất thực, sau khi hoàn tất bữa ăn, có các bình bát đã được rửa, ngồi xuống thoải mái ở nơi thanh vắng, đã nói lên những lời này:
402. ‘Này chị Isidāsī, chị là dễ mến, thậm chí tuổi trẻ của chị cũng chưa phai tàn, sau khi nhìn thấy điều gì xấu xa (ở cuộc sống tại gia) khiến chị gắn bó với việc xuất ly?’
403. Trong khi được hỏi như vậy ở nơi thanh vắng, vị ni Isidāsī ấy, thiện xảo về việc thuyết giảng Giáo Pháp, đã nói lời nói rằng: “Này Bodhī, hãy lắng nghe tôi đã được xuất gia như thế nào.
404. Ở tại kinh thành Ujjenī, cha của tôi là thương buôn, thu thúc trong giới hạnh. Tôi là con gái độc nhất, đáng yêu, hợp ý, được cảm tình của ông ấy.
405. Rồi những người hỏi cưới tôi thuộc gia tộc thượng lưu từ Sāketa đã đi đến, người thương buôn có nhiều châu ngọc (đã phái họ đi đến); cha đã cho tôi làm con dâu của ông ấy.
406. Đối với mẹ chồng và cha chồng, buổi tối, buổi sáng, sau khi đi đến gặp họ, tôi cúi đầu thể hiện sự tôn kính, rồi đảnh lễ các bàn chân theo như tôi đã được chỉ dạy.
407. Sau khi nhìn thấy các chị em gái, các anh em trai, người tùy tùng của chồng tôi, ngay cả người yêu quý duy nhất ấy, tôi run rẩy trao cho ghế ngồi.
408. Với cơm ăn, nước uống, thức nhai, và vật được tích trữ ở tại nơi ấy, tôi chiều chuộng, đem lại, và trao vật thích hợp cho từng người.
409. Sau khi thức dậy đúng giờ, tôi đi đến gian nhà, rửa sạch các bàn tay bàn chân ở ngưỡng cửa, rồi tôi đi đến bên chồng, với tay chắp lại.
410. Sau khi cầm lấy cái lược, đồ trang điểm, thuốc thoa, và cái gương nhỏ, tôi tự chính mình trang điểm cho chồng tựa như người nữ tỳ.
411. Tôi tự chính mình nấu cơm, tự chính mình rửa bát, tôi luôn luôn phục vụ người chồng tựa như người mẹ phục vụ đứa con trai duy nhất.
412. Người chồng bực bội đối với tôi, (trong khi tôi là) người đã thể hiện sự hy sinh, một mực yêu (chồng), như là người hầu gái, có ngã mạn đã được đè nén, là người dậy sớm, không biếng nhác, có giới hạnh như thế ấy.
413. Anh ta nói với mẹ và cha rằng: ‘Con sẽ xin phép và con sẽ ra đi. Để sống với nhau, con sẽ không sống với Isidāsī trong cùng một căn nhà.’
414. ‘Này con trai, chớ nói như vậy. Isidāsī sáng suốt, là người dậy sớm, không biếng nhác. Này con trai, cô ta không làm vừa ý con điều gì?’
415. ‘Cô ta không gây hại cho con bất cứ điều gì, nhưng con sẽ không sống chung với Isidāsī. Đối với con, cô ta thật là đáng ghét. Đối với con, là đủ rồi. Con sẽ không xin phép và con sẽ ra đi.’
416. Sau khi lắng nghe lời nói ấy của con trai, mẹ chồng và cha chồng đã hỏi tôi rằng: ‘Con đã phạm tội lỗi gì? Hãy bình tĩnh nói đúng theo sự tình.’
417. ‘Con cũng đã không phạm tội lỗi nào cả, con cũng không gây hại, con không nói lời hỗn xược. Còn có thể làm điều gì khi chồng ghét bỏ con?’
418. Họ, với tâm không vui, bị chồng chất khổ đau, đã đưa tôi về lại nhà của cha ruột (nói rằng): ‘Trong khi bảo vệ đứa con trai, chúng tôi tự đánh mất nữ thần Lakkhī (May Mắn) xinh đẹp.’
419. Rồi cha đã cho tôi vào căn nhà của một người giàu có thuộc gia tộc thứ nhì, với của hồi môn bằng một nửa so với của hồi môn mà người thương buôn (trước đây) đã tiếp nhận tôi.
420. Tôi cũng đã sống trong căn nhà của ông ấy được một tháng, rồi ông ấy cũng đã đuổi tôi đi, trong khi tôi phục vụ tựa như nữ tỳ, (và tôi) được đầy đủ giới hạnh, không phải là kẻ xấu xa.
421. Và cha tôi nói với kẻ đang đi đó đây vì việc khất thực, là người huấn luyện (kẻ khác), và là người đã được rèn luyện: ‘Hãy trở thành con rể của ta. Hãy quăng bỏ mảnh vải rách và cái tô xin ăn.’
422. Người ấy cũng thế, sau khi sống (chung) nửa tháng, thì nói với cha rằng: ‘Hãy trao cho con mảnh vải rách, cái tô xin ăn, và cái chậu, con cũng sẽ đi khất thực trở lại.’
423. Rồi cha, mẹ, và toàn bộ nhóm thân quyến của tôi nói với người ấy rằng: ‘Ở đây, cái gì chưa được con hài lòng? Hãy nói mau đi, vợ con sẽ làm điều ấy cho con.’
424. Được bảo như vậy, người ấy nói rằng: ‘Nếu bản thân con có khả năng (tự quyết định), đối với con là đủ rồi. Để sống với nhau, con sẽ không sống với Isidāsī trong cùng một căn nhà.’
425. Được tự do, người ấy đã ra đi. Còn tôi, đơn độc một mình, suy nghĩ rằng: ‘Ta sẽ không xin phép, ta sẽ ra đi để chết hoặc ta sẽ xuất gia.’
426. Rồi ni sư Jinadattā, vị ni rành rẽ về Luật, có sự nghe nhiều, đầy đủ giới hạnh, trong khi đi khất thực, đã đi đến nhà của cha.
427. Sau khi nhìn thấy vị ni ấy, tôi đã đứng dậy và sắp xếp cái ghế của chúng tôi cho vị ni ấy. Khi vị ni ấy đã ngồi xuống, tôi đã đảnh lễ các bàn chân của người và đã dâng cúng vật thực.
428. Sau khi làm cho (vị ni ấy) được thỏa mãn với cơm ăn, nước uống, thức nhai, và vật được tích trữ ở tại nơi ấy, tôi đã nói rằng: ‘Thưa ni sư, con muốn xuất gia.’
429. Rồi cha nói với tôi rằng: ‘Này con, con hãy thực hành Phạm hạnh ngay tại đây (ở căn nhà này). Con hãy làm thỏa mãn các vị Sa-môn và các vị có hai lần sanh (Bà-la-môn) với cơm ăn và nước uống.
430. Khi ấy, tôi chắp hai bàn tay lại, khóc lóc, nói với cha rằng: Bởi vì việc ác đã được tạo ra bởi con, con sẽ thủ tiêu nghiệp ấy.’
431. Rồi cha nói với tôi rằng: ‘Con hãy đạt lấy quả vị Giác Ngộ và Giáo Pháp cao cả. Con hãy thành tựu Niết Bàn mà bậc Tối Thượng của loài người đã chứng đắc.’
432. Sau khi đảnh lễ mẹ, cha, và toàn bộ nhóm thân quyến, tôi đã xuất gia; qua bảy ngày tôi đã chạm đến ba Minh.
433. Tôi biết bảy kiếp sống của mình; đây là quả (của nghiệp) và quả thành tựu của việc ấy (bị chồng hất hủi). Tôi sẽ thuật lại việc ấy cho cô. Cô hãy nhất tâm lắng nghe chuyện ấy.
434. Ở thành phố Erakaccha, tôi đã là người thợ vàng, có nhiều tài sản. Bị đắm đuối với sự say mê của tuổi trẻ, tôi đây đã gần gũi với vợ của kẻ khác.
435. Sau khi chết đi từ nơi ấy, tôi đây đã bị nung nấu ở địa ngục thời gian dài. Và sau khi bị nung nấu, từ nơi đó tôi đã được sanh lên và đã nhập thai vào bụng của con khỉ cái.
436. Khi tôi được bảy ngày tuổi, con khỉ đực khổng lồ chúa bầy đã thiến tôi. Việc ấy là quả của nghiệp của tôi đây, bởi vì đã đi đến với vợ của kẻ khác.
437. Sau khi chết đi từ nơi ấy, sau khi lìa đời ở khu rừng Sindhava, tôi đã hạ sanh vào bụng của con dê cái chột và què.
438. Sau khi đã chăm sóc những đứa con trong mười hai năm, tôi đã bị thiến, bị khổ sở vì dòi (ăn), không còn sức khỏe, bởi vì đã đi đến với vợ của kẻ khác.
439. Sau khi chết đi từ nơi ấy, tôi đây đã được sanh ra bởi con bò cái của người buôn trâu bò. Là con bê, có màu đỏ hung như cánh kiến, tôi đã bị thiến khi được mười hai tháng.
440. Tôi đã kéo cày, và gồng gánh cỗ xe kéo, mù lòa, bị khổ sở, không còn sức khỏe, bởi vì đã đi đến với vợ của kẻ khác.
441. Sau khi chết đi từ nơi ấy, tôi đây đã được sanh ra trong bụng của người nữ tỳ ở đường phố; tôi không phải là nữ cũng không phải là nam, bởi vì đã đi đến với vợ của kẻ khác.
442. Vào năm ba mươi, tôi đã chết đi và đã được sanh làm đứa bé gái ở gia tộc của người kéo xe, khốn khó, có ít của cải, chịu nhiều áp chế từ những người giàu có.
443. Sau đó, do số tiền lời đã được tích lũy quá nhiều, người điều khiển đoàn xe đã lôi kéo tôi đây, đang than khóc, sau khi đã cưỡng bức tôi lìa khỏi căn nhà.
444. Rồi vào năm tôi được mười sáu tuổi, sau khi nhìn thấy tôi đã đạt tuổi thành niên, trở thành thiếu nữ, người con trai của ông ấy tên là Giridāsa đã chọn tôi làm vợ.
445. Anh ta còn có người vợ khác nữa, (cô ấy) có giới hạnh, có đức hạnh, và có danh tiếng. Là người yêu thương chồng, tôi đã gây thù oán với cô ấy.
446. Việc ấy là quả của nghiệp của tôi đây, là việc họ đã ruồng rẫy tôi rồi ra đi, trong khi tôi phục vụ tựa như nữ tỳ. Dầu vậy, đối với điều ấy, tôi đã thực hiện sự chấm dứt.”
Trưởng lão ni Isidāsī đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Isidāsī.
Nhóm Bốn Mươi được chấm dứt.
--ooOoo--
73.
447. Ở thành phố Mantāvatī, Sumedhā, người con gái của hoàng hậu chánh cung của đức vua Koñca, đã có được đức tin nhờ vào những vị đang thực hành Giáo Pháp.
448. Là người có giới hạnh, nói năng khôn khéo, có sự nghe nhiều, đã được dạy dỗ về lời dạy của đức Phật, Sumedhā đã đi đến gặp mẹ cha rồi nói với cả hai người rằng: ‘Xin mẹ cha hãy lắng nghe.
449. Con thích thú Niết Bàn. Việc đi đến các hữu là không trường tồn, dầu là thuộc về cõi Trời đi nữa; vậy thì có gì với các dục rỗng không, ít khoái lạc, nhiều tai họa?
450. Các dục là cay đắng, ví như nọc độc của rắn, khiến những kẻ ngu bị mê mẩn. Chúng bị đọa vào địa ngục thời gian dài, bị hành hạ, khổ đau.
451. Có việc làm ác, có trí xấu xa, thường xuyên không thu thúc về thân, về khẩu, và về ý, (những kẻ ngu) sầu khổ ở đọa xứ.
452. Những kẻ ngu ấy có ác tuệ, không có ý tứ, bị giam hãm bởi (tham ái) nguyên nhân của Khổ; trong khi (có người) đang thuyết giảng, chúng không hiểu, không giác ngộ các Chân Lý cao thượng.
453. Thưa mẹ, những kẻ thích thú việc đi đến các hữu, mong mỏi việc sanh về các cõi Trời, những kẻ ấy là nhiều hơn, chúng không biết các Chân Lý đã được thuyết giảng bởi đức Phật cao quý.
454. Khi việc đi đến các hữu là vô thường, việc sanh về thậm chí ở các cõi Trời cũng là không trường tồn; những kẻ ngu không sợ hãi đối với việc bị sanh lần này lần khác.
455. Bốn đọa xứ và hai cảnh giới tái sanh (người và Trời) được đạt đến bằng cách này hay cách khác; còn đối với những kẻ đã đi đến đọa xứ thì không có việc xuất gia ở các địa ngục.
456. Cả hai (mẹ và cha) hãy cho phép con xuất gia theo lời giáo huấn của đấng Thập Lực. Ít bị bận rộn, con sẽ cố gắng cho việc dứt bỏ sự sanh và sự chết.
457. Có gì với việc đi đến các hữu, với việc được vui thú, với tội lỗi của thân xác không có thực chất? Vì sự diệt tận đối với tham ái ở các hữu, xin mẹ cha hãy cho phép, con sẽ xuất gia.
458. Sự hiện khởi của chư Phật, lúc không phải thời cơ đã được tránh khỏi, thời cơ đã đạt được, con sẽ không làm hư hỏng các giới và Phạm hạnh cho đến trọn đời.
459. Khi nào còn là người tại gia thì con sẽ không động đến thức ăn, con dứt khoát sẽ đi đến cái chết.’ Sumedhā nói với mẹ cha như vậy.
460. Bị khổ đau, mẹ khóc, và người cha của cô gái đã bị tác động toàn diện, (hai người) cố gắng thuyết phục đứa con đã nằm dài xuống nền nhà ở sân thượng của tòa lâu đài.
461. ‘Này con, hãy đứng dậy. Việc gì phải bị sầu muộn? Con đã được gả về thành phố Vāraṇavatī. Đức vua Aṇīkadatta đẹp trai. Con đã được gả cho ông ta.
462. Con sẽ là hoàng hậu chánh cung, là vợ của đức vua Aṇīkadatta. Này con, các giới cấm, sự thực hành Phạm hạnh, sự xuất gia là các việc khó làm.
463. Ở vương quốc, có uy lực, tài sản, vương quyền, của cải, sung sướng. Con còn trẻ, con hãy thọ hưởng sự hưởng thụ các dục. Này con, hãy để cho cuộc hôn lễ của con được tiến hành.’
464. Khi ấy, Sumedhā nói với mẹ cha rằng: ‘Đừng có những việc như thế. Việc đi đến các hữu là không có thực chất. Đối với con, hoặc là sẽ có sự xuất gia, hoặc là cái chết, và dứt khoát không có đám cưới.
465. Giống như loài dòi, con bám víu vào cái thân hôi thối, không trong sạch, có mùi mồ hôi, cái thây ma đáng kinh sợ, cái túi da có sự rò rỉ thường xuyên, chứa đầy các chất dơ.
466. Nó tựa như cái gì? Trong khi con biết rằng xác thân là ghê tởm, bị lấm lem những thịt và máu, chỗ trú của nhiều loại dòi, bữa ăn của những con chim, tại sao thân xác lại được đem cho?
467. Không bao lâu, khi tâm thức đã lìa, thân xác được đem ra bãi tha ma. Các thân quyến, trong khi ghê tởm, quăng bỏ nó giống như khúc gỗ mục.
468. Sau khi đã quăng bỏ thân xác ấy ở bãi tha ma làm bữa ăn cho những loài thú khác, mẹ và cha ruột, trong khi ghê tởm, tắm rửa; còn nhóm người công chúng thì sao?
469. Họ bị dính mắc ở cái thân xác, không có thực chất, sự tập hợp các xương và những sợi gân, cái thân hôi thối, chứa đầy nước miếng, nước mắt, phân, và nước tiểu.
470. Người nào, sau khi mổ xẻ thân ấy, có thể làm cho cái phần bên trong ra bên ngoài, ngay cả người mẹ ruột, trong khi không chịu nổi mùi của nó, cũng sẽ ghê tởm.
471. Trong khi suy xét đúng đường lối về (năm) uẩn, (mười tám) giới, (mười hai) xứ là pháp tạo tác, là nền tảng của sự sanh, là khổ đau, tại sao con còn mong muốn đám cưới?
472. Mỗi một ngày ba trăm cây giáo mới tinh rơi xuống ở thân thể, và dẫu cho sự hành hạ trong một trăm năm cũng vẫn là tốt hơn, nếu như vậy mà có được sự cạn kiệt của khổ đau.
473. Người nào có thể chấp nhận sự hành hạ sau khi nhận thức lời nói như vầy của bậc Đạo Sư: ‘Trong khi những người ấy đang bị giết chết lần này lần khác, luân hồi là dài đối với họ.’
474. Các sự hành hạ vô số kể được nhìn thấy ở chư Thiên, ở nhân loại, ở chủng loại các loài thú, ở tập thể của A-tu-la, ở các loài ngạ quỷ, và ở các địa ngục.
475. Có nhiều sự hành hạ ở các địa ngục dành cho người đã đi đến đọa xứ, dành cho người đang bị áp chế, thậm chí không có sự ẩn náu ở giữa chư Thiên, không có gì vượt trội sự an lạc của Niết Bàn.
476. Những người nào gắn bó với lời giáo huấn của đấng Thập Lực, ít bị bận rộn, cố gắng cho việc dứt bỏ sự sanh và sự chết, những người ấy đạt được Niết Bàn.
477. Thưa cha, ngay hôm nay con sẽ xuất ly. Việc gì với các của cải không có thực chất? Các dục đã bị con nhàm chán; chúng được xem là vật đã được mửa ra, đã được làm thành thân cây thốt nốt (bị cụt ngọn).’
478. Nàng ấy đã nói như thế với cha. Và Aṇīkadatta, người mà nàng ấy được gả cho, đã đi đến theo nghi thức của việc cưới hỏi, vào thời điểm đã được xác định là lễ cưới.
479. Khi ấy, Sumedhā, sau khi cắt đứt đầu tóc đen nhánh, dầy, rậm, mềm mại bằng con dao, sau đó đã đóng lại (cánh cửa) tòa lâu đài, rồi đã thể nhập tầng thiền thứ nhất.
480. Và nàng đã thể nhập thiền ấy. Rồi Aṇīkadatta đã đi đến thành phố. Ngay tại tòa lâu đài, Sumedhā (đã) khéo tu tập tưởng về vô thường.
481. (Trong lúc) Sumedhā bận chú tâm, Aṇīkadatta đã vội vã bước lên, với thân hình được trang điểm với ngọc ma-ni và vàng, với tay chắp lại, thỉnh cầu Sumedhā rằng:
482. ‘Ở vương quốc, có uy lực, tài sản, vương quyền, của cải, sung sướng. Nàng còn trẻ, nàng hãy thọ hưởng sự hưởng thụ các dục. Sự khoái lạc của các dục ở thế gian là rất khó đạt được.
483. Vương quốc đã được trao cho nàng. Nàng hãy thọ hưởng các của cải, hãy bố thí các vật thí. Nàng chớ có ủ dột, (khiến) mẹ cha của nàng khổ đau.’
484. Sumedhā, không có mục đích với các dục, có sự si mê đã xa lìa, nói điều này với Aṇīkadatta: ‘Chớ thích thú ở các dục. Chàng hãy nhìn thấy điều bất lợi ở các dục.
485. Đức vua Mandhātā của bốn châu lục đã đứng đầu trong số những người thọ hưởng dục lạc, (nhưng vẫn) không được thỏa mãn, đã chết đi, và các điều mong muốn của vị ấy đã không được đầy đủ.
486. Thần mưa có thể làm cơn mưa bảy loại châu báu ở xung quanh khắp cả mười phương, nhưng không có sự thỏa mãn của các dục. Loài người chết đi, thật sự không được thỏa mãn.
487. Các dục ví như dao và thớt; các dục ví như đầu rắn độc; chúng thiêu đốt ví như các cây đuốc cỏ; chúng tương tự như bộ xương.
488. Các dục là không thường còn, không bền vững, nhiều khổ đau, là những chất độc lớn lao, tựa như cục sắt đã được nung nóng, là gốc rễ của tội lỗi, có kết quả khổ đau.
489. Các dục ví như trái trên cây; ví như miếng thịt, khổ đau; ví như giấc chiêm bao, lừa bịp; các dục ví như vật vay mượn.
490. Các dục ví như gươm giáo, là bệnh tật, mụt nhọt, tội lỗi, khốn khổ, tương tự hố than cháy rực, là gốc rễ của tội lỗi, sợ hãi, giết chóc.
491. Các dục có nhiều khổ đau như vậy, đã được nói đến là các chướng ngại. Quý vị hãy đi đi, bản thân tôi không có sự tin tưởng ở việc đi đến các hữu.
492. Người khác sẽ làm gì cho tôi khi cái đầu của bản thân tôi đang bị thiêu đốt? Khi sự sống và chết đuổi theo sau, thì nên cố gắng cho việc diệt trừ đối với điều ấy.’
493. Sau khi mở ra cánh cửa, nhìn thấy mẹ cha và Aṇīkadatta ngồi ở nền nhà đang khóc than, tôi đã nói điều này:
494. ‘Luân hồi là dài lâu cho những kẻ ngu và những kẻ đang khóc lóc lần này lần khác về việc không có khởi đầu và chấm dứt, về cái chết của cha, về sự chết chóc của anh em trai, và về sự chết chóc của bản thân.
495. Hãy nhớ rằng nước mắt, sữa, máu, sự luân hồi không có khởi đầu và chấm dứt. Hãy nhớ rằng sự chồng chất của những khúc xương của các chúng sanh đang luân hồi.
496. Hãy nhớ rằng nước mắt, sữa, máu đã được so sánh với bốn biển. Hãy nhớ rằng sự chồng chất của những khúc xương trong một đại kiếp là sánh bằng núi Vipula.
497. Quả địa cầu, xứ Jambudīpa, được so sánh với kẻ đang luân hồi (ở sự luân hồi) không có khởi đầu và chấm dứt; (trái đất được làm thành) những viên bi nhỏ như hạt táo vẫn không sánh bằng những lần đã lần lượt làm mẹ.
498. Hãy nhớ rằng cỏ, củi, cành, lá được so sánh với sự (luân hồi) không có khởi đầu và chấm dứt. (Cắt cỏ, củi, cành, lá thành) những mẩu bốn ngón tay vẫn không sánh bằng những lần đã lần lượt làm cha.
499. Hãy nhớ rằng con rùa mù và lỗ hổng ở cái ách (trôi dạt) ở biển đông sang phía tây. Và hãy nhớ rằng sự gặp gỡ của nó là ví dụ về việc đạt được bản thể nhân loại.
500. Hãy nhớ rằng hình thể của xác thân tồi tệ, không có thực chất, ví như cục bong bóng nước. Hãy nhìn thấy các uẩn là vô thường. Hãy nhớ rằng các địa ngục là có nhiều tai họa.
501. Hãy nhớ về những kiếp sống kia kiếp sống nọ đang làm phát triển bãi tha ma lúc này lúc khác. Hãy nhớ đến những nỗi sợ hãi về cá sấu (sự tham ăn). Hãy nhớ về bốn Chân Lý.
502. Trong khi Bất Tử đang được biết đến, chàng được cái gì với việc uống vào năm vật cay đắng? Bởi vì mọi sự thích thú ở các dục còn đắng cay hơn năm vật cay đắng nữa.
503. Trong khi sự Bất Tử đang được biết đến, chàng được cái gì với các dục, là những thứ có sự nóng nực? Bởi vì mọi sự thích thú ở các dục là bị cháy rực, bị sôi sục, bị rung chuyển, bị thiêu đốt.
504. Trong khi là không có kẻ thù, chàng được cái gì với các dục, là những thứ có nhiều kẻ thù? Các dục là có nhiều kẻ thù, ví dụ như các vị vua, ngọn lửa, trộm cướp, nước (lũ), người không yêu thương, v.v...
505. Trong khi sự Giải Thoát đang được biết đến, chàng được cái gì với các dục, ở những thứ ấy có sự giết hại và trói buộc. Bởi vì do dục không tốt đẹp trong số các dục, chúng sanh chịu đựng những khổ đau do sự giết hại và trói buộc.
506. Những cây đuốc cỏ, đã được thắp sáng, đốt nóng những người đang nắm lấy và không bao giờ chịu buông ra. Các dục, quả giống như cây đuốc, đốt nóng những người không chịu buông ra.
507. Chớ từ bỏ sự an lạc lớn lao vì nguyên nhân khoái lạc ít ỏi của các dục. Chớ như con cá Puthuloma đã nuốt vào lưỡi câu về sau bị khốn khổ.
508. Chỉ còn cách hãy hết lòng kiềm chế đối với các dục, tựa như con chó bị trói buộc vào sợi xích. Quả vậy, các dục sẽ đối xử với ngươi, tựa như hạng người hạ liệt bị đói sẽ đối xử với con chó.
509. Bị vướng vào ở các dục, chàng sẽ chịu đựng nhiều khổ đau vô hạn lượng và buồn bực ở tâm trí. Hãy buông bỏ các dục không được bền lâu.
510. Trong khi sự không già đang được biết đến, chàng được cái gì với các dục, ở những thứ ấy có sự già. Ở khắp mọi nơi, tất cả các sự sanh ra đều bị nắm giữ bởi sự chết và bệnh tật.
511. Cái này là không già, cái này là không chết, cái này là vị thế không già không chết, không sầu muộn, không kẻ thù, không chướng ngại, không lầm lỗi, không sợ hãi, khỏi bị nóng nảy.
512. Sự Bất Tử này đã được chứng đắc bởi nhiều người. Ngay cả hôm nay, cái này vẫn còn được chứng ngộ (đối với) người nào áp dụng đúng đường lối, và không thể được với người không cố gắng.’
513. Trong khi không đạt được sự thích thú ở việc đi đến các sự tạo tác, Sumedhā nói như vậy. Trong khi thuyết phục Aṇīkadatta, Sumedhā đã ném nắm tóc xuống nền nhà.
514. Sau khi đứng lên, Aṇīkadatta ấy đã chắp tay thỉnh cầu mẹ cha của nàng rằng: ‘Quý vị hãy cho phép Sumedhā được xuất gia; nàng sẽ có sự nhìn thấy Giải Thoát và Chân Lý.’
515. Được mẹ cha cho phép, bị sợ hãi vì sự sầu muộn và lo sợ (luân hồi), nàng đã xuất gia. Trong khi còn là vị ni tu tập sự, sáu Thắng Trí và quả vị cao cả đã được (nàng) chứng ngộ.
516. Niết Bàn kỳ diệu, phi thường ấy đã thuộc về người con gái của đức vua, như đã được nàng nói rõ về việc làm trong đời sống thuộc thời quá khứ ở vào thời điểm cuối cùng.
517. Vào thời đức Thế Tôn Koṇāgamana, chúng tôi gồm ba người bạn gái[43] đã dâng cúng trú xá ở tại chỗ cư ngụ mới là tu viện của hội chúng.
518. Chúng tôi đã tái sanh mười lần, trăm lần, ngàn lần, mười ngàn lần ở các cõi trời, thì ở cõi người có điều gì để nói.
519. Chúng tôi đã có đại thần lực ở cõi trời, thì ở cõi người có điều gì để nói. Tôi đã là hoàng hậu, là báu vật nữ nhân trong số bảy loại báu vật.
520. Nhân ấy, nguồn sanh khởi ấy, căn nguyên ấy, sự chăm chỉ ấy trong Giáo Pháp, sự liên kết đầu tiên ấy, việc Niết Bàn ấy là do sự thỏa thích trong Giáo Pháp.[44]
521. Những người nào tin tưởng vào lời nói của bậc Trí Tuệ Cao Thượng thì thực hành như vậy, họ nhàm chán việc đi đến các hữu, sau khi nhàm chán họ lìa khỏi ái luyến.”
Trưởng lão ni Sumedhā đã nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumedhā.
Nhóm Lớn được chấm dứt.
*****
“Tất cả các câu kệ ấy là năm trăm hai mươi mốt. Các trưởng lão ni là một trăm lẻ một,[45] tất cả các vị ni ấy có sự cạn kiệt của các lậu hoặc.”
TRƯỞNG LÃO NI KỆ ĐƯỢC ĐẦY ĐỦ.
--ooOoo--