>>>Bấm vào đây đến trang nguồn<<<
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
CHUYỆN NGẠ QUỶ
Chuyển ngữ: Bhikkhu Indacanda
Các điều ấy (những lời đã được nghe thuyết giảng) cần được đối chiếu ở Kinh, cần được xem xét ở Luật, và chỉ khi nào chúng hiện diện ở Kinh và được thấy ở Luật, thời điều kết luận có thể rút ra ở đây là: “Điều này chắc chắn là lời giảng dạy của đức Thế Tôn và đã được vị trưởng lão ấy tiếp thâu đúng đắn.
(Trường Bộ II, Kinh Đại Bát-Niết-Bàn).
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
1. Các bậc A-la-hán ví như các cánh đồng, các thí chủ ví như các nông dân, vật dâng cúng ví như hạt giống, từ đây quả báo phát sanh.
2. Hạt giống này, việc gieo trồng, cánh đồng là (yếu tố được mong mỏi) đối với các ngạ quỷ và người thí chủ; các ngạ quỷ thọ hưởng quả bố thí ấy, người thí chủ thịnh vượng nhờ phước báu.
3. Ngay tại đây, sau khi làm việc thiện và cúng dường lại (phước báu) cho các ngạ quỷ, sau khi làm nghiệp tốt lành thì đi đến nơi chốn là cõi Trời. Chuyện Ngạ Quỷ Ví Như Cánh Đồng là thứ nhất.
4. “Thân thể ngươi có màu vàng toàn bộ, chiếu sáng khắp các phương, miệng của ngươi như là (mõm) của loài heo, ngươi đã tạo nghiệp gì trước đây?”
5. “Thưa ngài Nārada, tôi đã thu thúc về thân, tôi đã không thu thúc về khẩu, vì thế dáng vóc của tôi là thế ấy, giống như ngài nhìn thấy.
6. Thưa ngài Nārada, tôi kể lại điều ấy với ngài, thân này của tôi đã được ngài nhìn thấy. Ngài chớ làm điều ác bằng khẩu, hãy chớ là người có mõm heo.”
Chuyện Ngạ Quỷ Mõm Heo là thứ nhì.
7. “Ngươi mang làn da có màu sắc sáng chói thuộc cõi Trời, ngươi đứng trên bầu trời, ở không trung, và những con dòi rúc rỉa cái miệng có mùi hôi thối của ngươi, ngươi đã tạo nghiệp gì trước đây?”
8. “Tôi đã là một vị sa-môn có lời nói xấu xa, ác độc. (Mặc dầu) có dáng vóc của vị khổ hạnh, tôi đã không thu thúc về khẩu. Làn da có màu sắc của tôi đạt được nhờ vào khổ hạnh và miệng của tôi hôi thối vì nói đâm thọc.
9. Thưa ngài Nārada, điều này đã được ngài đích thân nhìn thấy. Những người có lòng bi mẫn, tốt lành đã nói rằng: ‘Chớ nói lời đâm thọc và chớ nói lời dối trá, ngươi sẽ được trở thành Dạ-xoa có dục lạc theo như ước muốn.’”
Chuyện Ngạ Quỷ Miệng Thối là thứ ba.
14. “(Những ngạ quỷ) đứng bên ngoài các vách tường và ở các ngã tư ngã ba đường, chúng trở về căn nhà của mình rồi đứng ở các trụ cửa ra vào.
15. Khi nhiều thức ăn nước uống vật thực cứng mềm được bày ra, bởi vì duyên nghiệp của các chúng sanh nên không ai nhớ đến họ.
16. Những người nào có lòng thương tưởng, (những người ấy thường) ban phát thức ăn nước uống tinh khiết, hảo hạng, phù hợp, đúng thời đến các quyến thuộc như vầy: ‘Vật thí này hãy thuộc về các quyến thuộc, mong rằng các quyến thuộc được an vui.’
17. Và các ngạ quỷ quyến thuộc ấy đã đi đến tụ hội lại ở chỗ ấy, rồi tùy hỷ một cách trân trọng về các thức ăn nước uống dồi dào rằng:
18. ‘Mong rằng các quyến thuộc của chúng tôi được sống lâu. Nhờ vào các thân quyến mà chúng tôi được thọ hưởng. Việc cúng dường đến chúng tôi đã được thực hiện, các thí chủ không phải là không có quả báo.’
19. Bởi vì nơi ấy không có trồng trọt, việc chăn nuôi bò ở nơi này không được biết đến, việc thương mại ví như việc buôn bán bằng vàng là không có; các ngạ quỷ ở nơi ấy, những người đã chết, duy trì sự sống với vật đã được bố thí từ nơi đây.
20. Giống như nước mưa rơi xuống ở nơi cao chảy xuống chỗ thấp, tương tự y như thế, vật được bố thí từ nơi đây đem lại lợi ích cho các ngạ quỷ.
21. Giống như các dòng sông được tràn ngập thì làm đầy biển cả, tương tự y như thế, vật được bố thí từ nơi đây đem lại lợi ích cho các ngạ quỷ.
22. ‘Họ đã cho ta, họ đã làm cho ta, họ là các quyến thuộc, thân hữu, bạn bè của ta,’ trong khi nhớ lại việc đã làm trước đây, nên ban phát sự cúng dường đến các ngạ quỷ.
23. Sự khóc lóc, và sầu muộn, hay sự than vãn khác là không nên, bởi vì điều ấy không đem lại lợi ích cho hàng ngạ quỷ, (cho dầu) các thân quyến duy trì (hành động) như vậy.
24. Và thêm nữa, việc cúng dường này được dâng cúng, được khéo thiết lập ở Hội Chúng, thì lập tức thành tựu lợi ích dài lâu cho ngạ quỷ ấy.
25. Việc ấy là bổn phận đối với thân quyến, và điều này đã được chỉ bảo. Việc cúng dường cao quý đến các ngạ quỷ đã được làm. Và sức lực đã được trao đến các vị tỳ khưu. Phước báu được tạo ra bởi quý vị không phải là ít.”
Chuyện Ngạ Quỷ Ở Bên Kia Vách Tường là thứ năm.
26. “Nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, có mùi hôi, toát ra mùi thối tha, còn bị bu quanh bởi những con ruồi?”
27. “Thưa ngài đại đức, con là nữ ngạ quỷ bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây con đã đi đến thế giới ngạ quỷ.
28. Sau khi hạ sanh năm người con trai vào buổi tối, và năm đứa khác nữa vào buổi sáng, con ăn (thịt) chúng, nhưng chúng vẫn là không đủ đối với con.
29. Tim con bị thiêu đốt và bốc khói vì cơn đói, con không thể đạt được nước để uống. Ngài hãy nhìn xem con bị lâm vào cảnh bất hạnh.”
30. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà ngươi lại ăn thịt những đứa con trai?”
31. “Người đàn bà có chung chồng với con đã đậu thai, con đã suy tính việc độc ác dành cho cô ấy. Với tâm ý xấu xa, con đây đã làm cho cô ấy bị sẩy thai.
32. Bào thai hai tháng của cô ấy đã tuôn ra toàn là máu. Khi đó, mẹ của cô ấy, giận dữ đối với con, đã tụ tập thân quyến lại.
33. Bà đã bắt con thề thốt và cho người mắng nhiếc con. Con đây đã nói lời thề khủng khiếp và là lời nói dối trá: ‘Nếu việc ấy do tôi gây ra, tôi sẽ ăn thịt những đứa con trai.’
34. Do quả thành tựu của cả hai, của nghiệp ấy và của việc nói dối, con ăn thịt những đứa con trai, con bị lấm lem bởi máu mủ.”
Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Năm Đứa Con Trai là thứ sáu.
35. “Nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, có mùi hôi, toát ra mùi thối tha, còn bị bu quanh bởi những con ruồi?”
36. “Thưa ngài đại đức, con là nữ ngạ quỷ bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây con đã đi đến thế giới ngạ quỷ.
37. Sau khi hạ sanh bảy người con trai vào buổi tối, và bảy đứa khác nữa vào buổi sáng, con ăn (thịt) chúng, nhưng chúng vẫn là không đủ đối với con.
38. Tim con bị thiêu đốt và bốc khói vì cơn đói. Con bị bứt rứt tựa như bị thiêu đốt bởi ngọn lửa, con không đạt được sự nguôi ngoai.”
39. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà ngươi lại ăn thịt những đứa con trai?”
40. “Con đã có hai đứa con trai, cả hai đều đạt đến tuổi thanh niên. Được có thêm sức mạnh của những người con trai, con đây đã khinh thường chồng.
41. Do đó, chồng con bực tức đã đem về người vợ khác. Và cô ấy đã đậu thai, con đã suy tính việc ác độc dành cho cô ấy.
42. Với tâm ý độc ác, con đây đã tạo ra việc sẩy thai (cho cô ấy). Bào thai ba tháng của cô ấy đã bị sẩy, có máu hôi thối.
43. Khi ấy, mẹ của cô ấy, giận dữ đối với con, đã tụ tập thân quyến lại. Bà đã bắt con thề thốt và cho người mắng nhiếc con.
44. Con đây đã nói lời thề khủng khiếp và là lời nói dối trá: ‘Nếu việc ấy do tôi gây ra, thì tôi sẽ ăn thịt những đứa con trai.’
45. Do quả thành tựu của cả hai, của nghiệp ấy và của việc nói dối, con ăn thịt những đứa con trai, con bị lấm lem bởi máu mủ.”
Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Bảy Đứa Con Trai là thứ bảy.
46. “Tại sao con cắt cỏ xanh tươi rồi lảm nhảm với con bò già có mạng sống đã lìa rằng: ‘Ăn đi, hãy ăn đi,’ như là có vẻ điên khùng?
47. Bởi vì con bò đã chết không sống lại được nhờ vào cơm ăn nước uống; con là kẻ ngu và đần độn, giống như bất cứ kẻ mất trí nào khác.”
48. “Các chân này, cái đầu này, thân này với cái đuôi, những con mắt còn tồn tại y nguyên như thế; con bò này có thể sống lại được.
49. Còn các tay chân, thân hình, và đầu của ông nội là không được nhìn thấy, trong khi khóc than ở đống đất chẳng phải chính cha mới là kẻ mất trí hay sao?”
50. “Quả vậy, trong khi ta đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, ta có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
51. Quả vậy, mũi tên sầu muộn cắm ở tim của ta đã được nhổ lên, trong khi ta bị ưu phiền vì nỗi sầu muộn, con đã xua tan nỗi sầu muộn về người cha cho ta.
52. Ta đây, với mũi tên đã được rút ra, có được trạng thái mát mẻ, được an tịnh. Này chàng thanh niên, sau khi lắng nghe con, ta không sầu muộn, ta không khóc than.
53. Những người có trí tuệ, những người có lòng thương tưởng hành động như thế. Họ giúp cho thoát khỏi cơn sầu muộn giống như Sujāta đối với người cha vậy.”
Chuyện Ngạ Quỷ Bò Đực là thứ tám.
54. “Đây là quả thành tựu của việc gì khiến người này ăn phân và nước tiểu, máu và mủ? Vậy người đàn bà này đã tạo nghiệp gì khiến nàng ấy luôn luôn ăn máu và mủ vậy?
55. Những tấm vải mới, lại xinh đẹp, mềm, sạch và có lông mịn, đã được cho đến nàng này thì trở thành như là những tấm kim khí; vậy người đàn bà này đã tạo nghiệp gì?”
56. “Thưa ngài đại đức, nàng này đã là vợ của con, không bố thí, bỏn xẻn, keo kiệt. Nàng ấy chửi rủa và mắng nhiếc con trong khi con dâng cúng đến các vị Sa-môn và Bà-la-môn (nói rằng):
57. ‘Ông hãy luôn luôn ăn vật bất tịnh như là phân và nước tiểu, máu và mủ, và điều này là dành cho ông ở kiếp sau, và các y phục của ông hãy trở thành như là các tấm kim khí.’ Sau khi làm ác hạnh như thế, nàng đã đi đến tình trạng này và ăn (vật dơ) một thời gian lâu dài.”
Chuyện Ngạ Quỷ và Người Chủ Thợ Dệt là thứ chín.
58. “Cô nàng nào đang đứng ở bên trong cung điện mà lại không chịu bước ra? Này người con gái ngoan, xin nàng hãy bước ra, hãy cho chúng tôi nhìn nàng, con người có đại thần lực ấy.”
59. “Bị trần truồng, tôi khổ sở và xấu hổ để bước ra bên ngoài. Tôi được che đậy bằng những sợi tóc, phước báu của tôi đã làm là ít ỏi.”
60. “Này, tôi tặng nàng tấm choàng. Nàng hãy quấn tấm vải này vào. Này người đẹp, sau khi quấn vào tấm vải này, nàng hãy bước ra bên ngoài. Này người con gái ngoan, xin nàng hãy bước ra, hãy cho chúng tôi nhìn nàng, khi nàng đứng ở bên ngoài.”
61. “Vật thí của ông dầu tay trao tay vẫn không lợi ích cho tôi. Ở đây, người cư sĩ kia, có niềm tin, là đệ tử của đấng Chánh Đẳng Giác.
62. Sau khi choàng lên người ấy và chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu tất cả các dục lạc.”
63. Và sau khi tắm, sau khi thoa dầu cho người ấy, những người thương buôn ấy đã choàng lên bằng các tấm vải rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho nàng ấy.
64. Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.
65. Do đó, được sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải của xứ Kāsī hạng nhất, nàng vừa cười vừa bước ra khỏi tòa lâu đài; quả báo này là do sự cúng dường.
66. “Cung điện có dáng vóc được tô điểm khéo léo đáng yêu của nàng chiếu sáng. Thưa tiên nữ, đã được hỏi, xin nàng hãy thuật lại quả báo này là của nghiệp gì?”
67. “Với tâm ý tịnh tín, tôi đã dâng cái bánh mè đến vị tỳ khưu có bản thể chính trực đang đi du hành.
68. Tôi thọ hưởng quả thành tựu của nghiệp ấy ở tại cung điện trong thời gian dài, nhưng giờ đây việc ấy chỉ còn chút ít.
69. Bốn tháng nữa, tôi sẽ chết. Tôi sẽ rơi vào địa ngục vô cùng khổ sở, ghê rợn.
70. Địa ngục có bốn góc, có bốn cửa, được phân chia thành các phần cân xứng, được bao quanh bằng tường sắt, được đậy lại bằng tấm sắt.
71. Mặt nền của nó làm bằng sắt, cháy rực, có sức nóng, tỏa rộng ra xung quanh một trăm do-tuần, và luôn luôn tồn tại.
72. Tại nơi ấy, trong thời gian dài tôi sẽ cảm thọ khổ, quả báo của nghiệp ác; vì thế tôi vô cùng sầu muộn.”
Chuyện Ngạ Quỷ Sói Đầu là thứ mười.
73. “Dẫn đầu là người di chuyển bằng con voi trắng, còn ở giữa là bằng chiếc xe lừa kéo, và sau cùng là người thiếu nữ được đưa đi bằng kiệu khiêng trong lúc nàng đang chiếu sáng khắp cả mười phương.
74. Trái lại, hai ngươi thì có búa tạ cầm ở bàn tay, có khuôn mặt đẫm lệ, có thân thể bị trầy trụa, rách nát. Khi là con người, hai ngươi đã làm điều ác gì để rồi (bây giờ) hai ngươi uống máu lẫn nhau?”
75. “Người đi dẫn đầu bằng con voi, loài tượng trắng có bốn chân, đã là người con trai lớn của chúng tôi. Sau khi dâng các vật thí, có được sự an lạc, nó vui sướng.
76. Người ở giữa, bằng chiếc xe lừa kéo được thắng vào bốn con lừa di chuyển một cách khéo léo, đã là người con trai giữa của chúng tôi. Không bỏn xẻn, là người chủ thí, nó chói sáng rực rỡ.
77. Và cô gái sau cùng, được đưa đi bằng kiệu khiêng, là người nữ có trí tuệ, có ánh mắt thơ ngây của loài nai, đã là người con gái út của chúng tôi. Với (sự bố thí) nửa phần của một phần ăn, có được sự an lạc, nó vui sướng.
78. Và những người này trước đây, với tâm tịnh tín, đã dâng các vật thí đến các Sa-môn và Bà-la-môn; trái lại chúng tôi đã là những kẻ bỏn xẻn, là những kẻ mắng nhiếc các Sa-môn và Bà-la-môn. Những người này sau khi bố thí thì thong dong đó đây, còn chúng tôi bị héo úa như là cây sậy bị quăng bỏ.”
79. “Là những kẻ có bản tính vô cùng xấu xa, các ngươi có thức ăn như thế nào? Chỗ nằm thế nào? Nuôi sống bằng cách nào? Trong khi có nhiều của cải không phải là ít, các ngươi đã bỏ lỡ niềm hạnh phúc, giờ đây các ngươi gánh chịu khổ đau.”
80. “Sau khi giết hại lẫn nhau, chúng tôi uống mủ và máu. Chúng tôi uống nhiều nhưng vẫn không được thỏa mãn, không được hài lòng.
81. Quả y như thế, những kẻ (giờ đây) than vãn là những người không bố thí, sau khi chết trở thành cư dân của cõi Dạ-ma. Những người ấy sau khi nhận thức và đạt được các của cải nhưng lại không thọ hưởng và cũng không làm việc phước thiện.
82. Những người ấy, về sau này bị lâm vào cảnh đói khát, trở thành các ngạ quỷ bị thiêu cháy trong thời gian dài, luôn bị đốt nóng. Sau khi làm các nghiệp có quả báo khổ đau, chúng phải chịu đựng sự khổ sở là các quả báo đớn đau.
83. Bởi vì của cải thóc gạo là tạm bợ, mạng sống ở đời này là tạm bợ, sau khi biết được tạm bợ là tạm bợ, người sáng trí nên tạo lập hòn đảo (chốn nương nhờ).
84. Những người nhận biết như vậy là những người thông hiểu Giáo Pháp. Sau khi lắng nghe lời dạy của các vị A-la-hán, họ không xao lãng trong việc bố thí.”
Chuyện Ngạ Quỷ Voi là thứ mười một.
85. “Giống như con rắn từ bỏ lớp vỏ già cỗi, phần thân thể của mình, rồi ra đi, tương tự như thế ấy khi thân xác không còn lợi ích, khi là người đã ra đi, đã từ trần.
86. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
87. “Không được gọi, từ nơi kia nó đã đi đến; chưa được phép, từ nơi này nó đã ra đi. Nó đã đi đến như thế nào thì nó đã ra đi như thế ấy, trong trường hợp ấy sự than vãn có lợi ích gì?
88. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
89. “Nếu tôi khóc, tôi sẽ trở nên tiều tụy; trong trường hợp ấy liệu có được kết quả gì cho tôi? (Việc ấy) còn làm tăng thêm sự ưu sầu cho quyến thuộc bạn bè thân hữu của chúng tôi.
90. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
91. “Cũng giống như đứa bé trai khóc lóc đòi mặt trăng đang di chuyển, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như thế.
92. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
93. “Này người Bà-la-môn, cũng giống như lọ nước đã bị vỡ, không thể hàn gắn lại, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như thế.
94. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Chuyện Ngạ Quỷ Rắn là thứ mười hai.
Phẩm Rắn là thứ nhất.
Tóm Lược Phẩm Này
Cánh đồng, con heo, (miệng) hôi thối, luôn cả (hình nộm) bằng bột, bên kia vách tường, rồi năm, và bảy đứa con trai, con bò đực, và người thợ dệt, tương tự là đầu bị sói, con voi, và luôn cả rắn nữa là mười hai.
--ooOoo--
95. “Này cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”
96. “Thưa ngài đại đức, con là nữ ngạ quỷ bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây con đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
97. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây nàng đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”
98. “Thưa ngài, cha và mẹ hoặc luôn cả các thân quyến đã không có lòng thương tưởng đến con, họ không khuyến khích con rằng: ‘Con hãy dâng vật thí đến các Sa-môn và Bà-la-môn với tâm tịnh tín.’
99. Từ đây cho đến năm trăm năm, con lang thang, lõa lồ như thế này, trong khi bị ngấu nghiến bởi cơn đói và cơn khát; điều này là quả báo của nghiệp ác của con.
100. Thưa chủ nhân, con xin đảnh lễ ngài với tâm tịnh tín. Thưa bậc sáng trí, có đại oai lực, xin ngài hãy thương xót con. Xin ngài hãy bố thí bất cứ vật gì rồi chỉ định việc ấy là dành cho con. Thưa ngài đại đức, xin ngài hãy giải thoát con khỏi cảnh giới khổ đau.”
101. Sau khi đáp lại rằng: ‘Tốt lắm,’ vị Sāriputta ấy, bậc có lòng thương tưởng, đã dâng đến các vị tỳ khưu vắt cơm, mảnh vải cỡ bằng bàn tay, và tô nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.
102. Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.
103. Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp vị Sāriputta.
104. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
105. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
106. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
107. “Bậc hiền trí, đấng bi mẫn ở thế gian, đã nhìn thấy con đây bị khổ sở, vàng vọt, ốm o, đói ăn, lõa lồ, có làn da nứt nẻ.
108. Ngài đã dâng đến các vị tỳ khưu vắt cơm, mảnh vải cỡ bằng bàn tay, và tô nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho con.
109. Xin ngài hãy nhìn xem quả báo của vắt cơm: Con thọ dụng bữa ăn có nhiều hương vị trong một ngàn năm, là người có dục lạc theo như ước muốn.
110-111. Xin ngài hãy nhìn xem quả thành tựu của mảnh vải cỡ bằng bàn tay là như thế nào: Thưa ngài, các vải mặc ở lãnh thổ của đức vua Nanda nhiều chừng nào, thì các vải vóc và các y phục bằng tơ lụa, sợi len, sợi lanh, và bông vải của con còn nhiều hơn thế ấy.
112. Chúng dư thừa và có trị giá cao, hơn nữa chúng treo lủng lẳng ở không trung; con đây chỉ khoác vào cái nào thích ý.
113. Xin ngài hãy nhìn xem quả thành tựu của tô nước uống là như thế nào: Có các hồ sen sâu thẳm, hình chữ nhật, đã khéo được hóa hiện ra.
114. Có nước trong, có những bến bãi xinh đẹp, mát mẻ, có mùi thơm, được che phủ bởi nhiều loại sen hồng và sen xanh, tràn ngập nước và phấn hoa.
115. Con đây hưởng lạc, nô đùa, vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Thưa ngài, con đi đến để đảnh lễ bậc hiền trí, đấng bi mẫn ở thế gian.”
Chuyện Ngạ Quỷ Saṃsāramocaka là thứ nhất.
116. “Này cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”
117. “Tôi là mẹ của ngài trong những kiếp sống khác trước đây, đã bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát.
118-119. Bị tác động bởi cơn đói, tôi ăn vật thuộc về người nữ và người nam: vật bị ói ra, vật bị khạc nhổ, nước miếng, nước mũi, đờm dãi, mỡ béo của những thi thể đang bị đốt cháy, và máu của những phụ nữ đang sanh, máu của những vết thương và của những vết cắt ở lỗ mũi và ở đầu.
120. Tôi có thức ăn là mủ máu của những loài thú nuôi và của những con người, không chốn nương tựa, và không nơi cư trú, có chỗ nghỉ ngơi là chiếc giường xám xanh (dùng khiêng tử thi).
121. Này con trai, hãy cho tôi vật thí, sau khi bố thí xin ngài hãy chỉ định (việc ấy là) dành cho tôi; được như thế thì tôi có thể thoát khỏi việc thọ thực mủ và máu.”
122. Sau khi lắng nghe lời nói của người mẹ, vị Upatissa, bậc có lòng thương tưởng, đã thỉnh ý các vị Moggallāna, Anuruddha, và Kappina.
123. Sau khi thực hiện bốn liêu cốc, vị ấy đã dâng các liêu cốc và cơm ăn nước uống đến Hội Chúng bốn phương; vị ấy đã chỉ định sự cúng dường là dành cho người mẹ.
124. Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, nước uống, vải vóc; quả báo này là do sự cúng dường.
125. Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp vị Kolita.
126. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
127. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
128. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
129. “Tôi là mẹ của Sāriputta trong những kiếp sống khác trước đây, đã bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát.
130-131. Bị tác động bởi cơn đói, tôi ăn vật thuộc về người nữ và người nam: vật bị ói ra, vật bị khạc nhổ, nước miếng, nước mũi, đờm dãi, mỡ béo của những thi thể đang bị đốt cháy, và máu của những phụ nữ đang sanh, máu của những vết thương và của những vết cắt ở lỗ mũi và ở đầu.
132. Tôi có thức ăn là mủ máu của những loài thú nuôi và của những con người, không chốn nương tựa, và không nơi cư trú, có chỗ nghỉ ngơi là chiếc giường xám xanh (dùng khiêng tử thi).
133. Nhờ vào sự bố thí của Sāriputta, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Thưa ngài, tôi đi đến để đảnh lễ bậc hiền trí, đấng bi mẫn ở thế gian.”
Chuyện Ngạ Quỷ - Mẹ của Trưởng Lão Sāriputta là thứ nhì.
134. “Này cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”
135. “Tôi là Mattā, cô là Tissā, trước đây tôi đã là người vợ chung chồng với cô. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
136. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây chị đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”
137. “Tôi đã là người nhẫn tâm, thô lỗ, ganh tỵ, bỏn xẻn, và xảo quyệt. Sau khi nói lời tồi tệ với cô, tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
138. “Em cũng biết tất cả, chị đã là người nhẫn tâm như thế nào. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị bị bao phủ bởi bụi đất?”
139. “Cô đã gội đầu xong, có y phục sạch sẽ, đã được trang điểm, và tôi còn hơn cả cô, đã được trang điểm hơn cả cô.
140. Cô đã chuyện trò với chồng trong khi tôi đây đang quan sát; vì thế, tôi đã có sự ganh tỵ lớn lao, sự phẫn nộ đã nổi lên ở tôi.
141. Kế đó, tôi đã hốt bụi đất và đã trút bụi đất xuống chính cô; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi bị bao phủ bởi bụi đất.”
142. “Em cũng biết tất cả, chị đã trút bụi đất xuống em. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị bị day dứt bởi mụn ghẻ?”
143. “Là những người thu hái dược liệu, cả hai chúng ta đã đi vào trong rừng. Cô đã thu hái dược liệu, còn tôi đã thu hái loại cây kapikacchu.
144. Trong khi cô đây không hay biết, tôi đã rải rắc (kapikacchu) xuống giường của cô; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi bị day dứt bởi mụn ghẻ.”
145. “Em cũng biết tất cả, chị đã rải rắc (kapikacchu) xuống giường của em. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị bị lõa lồ?”
146. “Đã có cuộc gặp gỡ của các thân hữu, là cuộc hội họp của các thân quyến, và cô đã được mời cùng với người chồng (chung), còn tôi thì không.
147. Trong khi cô đây không hay biết, tôi đã giấu đi y phục của cô; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi bị lõa lồ.”
148. “Em cũng biết tất cả, chị đã giấu đi y phục của em. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị có mùi của phân?”
149. “Tôi đã ném bỏ vật thơm, tràng hoa, và dầu thoa đắt giá của cô vào hố phân, việc xấu xa ấy đã do tôi gây ra; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi có mùi của phân.”
150. “Em cũng biết tất cả, việc xấu xa ấy đã do chị gây ra. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị bị đọa vào khổ cảnh?”
151. “Tài sản hiện có trong nhà đã là thuộc về cả hai một cách bình đẳng. Trong khi các vật bố thí đang hiện hữu, tôi đã không tạo lập hòn đảo (nương nhờ) cho bản thân; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi bị đọa vào khổ cảnh.
152. Chính vào lúc ấy, cô đã nói với tôi rằng: ‘Chị theo đuổi nghiệp ác, bởi vì với những nghiệp ác, nhàn cảnh là không dễ đạt được.’”
153. “Chị đến với em bằng cách chống đối, và còn ganh tỵ với em nữa. Chị hãy nhìn xem quả thành tựu của những nghiệp ác là như thế nào.
154. Nhà cửa và các tớ gái ấy, luôn cả các đồ trang sức này đã là của chị, và chúng đang phục vụ những kẻ khác; các của cải là không trường cửu.
155. Giờ này, cha của Bhūta từ chợ đi về nhà có lẽ sẽ bố thí cho chị vật gì đó; cho đến khi ấy chị chớ rời khỏi đây.”
156. “Tôi thì lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, gầy guộc, nổi đầy gân. Việc này là điều xấu hổ của hàng phụ nữ; chớ để cha của Bhūta nhìn thấy tôi.”
157. “Nào, vật gì em sẽ biếu chị, hoặc là điều gì em làm cho chị, qua đó chị có thể được hạnh phúc, có sự thành tựu mọi điều mong mỏi?”
158. “Bốn vị tỳ khưu (thỉnh) từ Hội Chúng, và bốn vị nữa (thỉnh) cá nhân, sau khi dâng bữa ăn đến tám vị tỳ khưu, hãy chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu mọi điều mong mỏi.”
159. “Tốt lắm!” Sau khi thỏa thuận, nàng ấy đã dâng bữa ăn đến tám vị tỳ khưu, đã khoác lên (các vị) với những tấm vải, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.
160. Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.
161. Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp người nữ có chung chồng.
162. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
163. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
164. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, tôi hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
165. “Tôi là Mattā, cô là Tissā, trước đây tôi đã là người vợ có chung chồng với cô. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
166. Nhờ vào vật thí đã được cô dâng cúng, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Này em gái, mong rằng cô sống thọ cùng với tất cả thân quyến.
167. Nơi chốn không sầu muộn, xa lìa luyến ái, là chỗ trú ngụ của các vị có quyền lực. Này người đẹp, ở đây sau khi thực hành Giáo Pháp, sau khi dâng cúng vật thí, sau khi loại trừ ô nhiễm của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị chê trách, mong rằng cô đi đến nơi chốn cõi Trời.”
Chuyện Ngạ Quỷ Mattā là thứ ba.
168. “Nàng đen đủi, có vóc dáng xấu xí, thô kệch, có dáng vẻ ghê rợn, có mắt đỏ ngầu, có răng vàng khè, tôi nghĩ rằng nàng không phải loài người?”
169. “Này Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của ông. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
170. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây nàng đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”
171. Tôi đã là người nhẫn tâm, có lời nói thô lỗ, không tôn trọng ông. Sau khi nói lời tồi tệ với ông, tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
172. “Này, tôi cho nàng tấm choàng. Nàng hãy quấn mảnh vải này vào. Sau khi quấn vào mảnh vải này, hãy đi đến, ta sẽ đưa nàng về nhà.
173. Khi nàng đã đi đến nhà, nàng sẽ nhận được y phục, cơm ăn và nước uống. Nàng sẽ trông thấy những đứa con trai của nàng, và nhìn xem những cô con dâu.”
174-175. “Vật thí của ông dầu tay trao tay vẫn không lợi ích cho tôi. Ông hãy làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu tất cả các dục lạc.”
176-177. “Tốt lắm!” Sau khi thỏa thuận, vị ấy đã thực hiện dồi dào vật thí: cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc, chỗ trú ngụ, lọng che, vật thơm, tràng hoa, và nhiều loại giày dép. Sau khi làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.
178. Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.
179. Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp người chồng.
180. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
181. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
182. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, tôi hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
183. “Này Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của chàng. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.
184. Nhờ vào vật thí đã được chàng dâng cúng, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Này gia chủ, mong rằng chàng sống thọ cùng với tất cả thân quyến.
185. Nơi chốn không sầu muộn, xa lìa luyến ái, là chỗ trú ngụ của các vị có quyền lực. Này gia chủ, ở đây sau khi thực hành Giáo Pháp, sau khi dâng cúng vật thí, sau khi loại trừ ô nhiễm của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị chê trách, mong rằng chàng đi đến nơi chốn cõi Trời.”
Chuyện Ngạ Quỷ Nandā là thứ tư.
186. “Ngươi đã được trang điểm, có bông tai đã được đánh bóng, có mang tràng hoa, có bôi xức trầm hương màu vàng, sau khi giơ hai cánh tay lên rồi than khóc ở giữa khu rừng, ngươi bị khổ đau điều gì?”
187. “Khung xe làm bằng vàng, rực rỡ, được phát sanh lên cho tôi. Tôi không tìm ra cặp bánh xe cho nó. Vì nỗi khổ đau ấy, tôi sẽ từ bỏ mạng sống.”
188. “Nó làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng hồng ngọc, hay làm bằng bạc? Này người thanh niên hiền thiện, ngươi hãy nói với ta. Ta sẽ giúp cho ngươi đạt được cặp bánh xe.”
189. Người thanh niên ấy đã nói với ông ấy rằng: “Ở đây, mặt trăng và mặt trời được nhìn thấy; cỗ xe của tôi, làm bằng vàng, được chói sáng với cặp bánh xe ấy.”
190. “Này người thanh niên, ngươi quả thật khờ dại, ngươi mong mỏi vật không thể mong mỏi. Ta nghĩ rằng ngươi sẽ chết bởi vì ngươi sẽ không đạt được mặt trăng và mặt trời.”
191. “Việc đi và đến (của mặt trăng và mặt trời) còn được nhìn thấy. Ở đây, màu sắc và bản chất của cả hai là theo trình tự. Trái lại, người chết, đã qua đời, không được nhìn thấy. Vậy ở đây, trong hai người đang khóc lóc, người nào khờ dại hơn?”
192. “Này người thanh niên, quả nhiên ngươi nói đúng sự thật. Trong hai người đang khóc lóc, chính ta là khờ dại hơn. Ta đang mong mỏi người chết, đã qua đời, ví như đứa bé trai đang khóc đòi mặt trăng.”
193. “Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
194. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của tôi.
195. Chính tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có trạng thái mát lạnh, đã được an tịnh. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe ngươi, tôi không sầu muộn, không khóc lóc.”
196. “Phải chăng ngươi là Thiên nhân, là nhạc sĩ Thiên đình, hay là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây? Ngươi là ai, hay là con trai của ai, làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết ngươi?”
197. “Đứa con trai nào mà ông đã tự mình thiêu đốt ở nơi hỏa táng rồi than vãn và khóc lóc, người ấy chính là tôi; sau khi làm việc thiện, tôi đã đạt đến sự cộng trú ở cõi Ba Mươi (Ba).”
198. “Chúng tôi đã không nhìn thấy vật thí ít hay nhiều của ngươi trong khi ngươi bố thí ở nhà mình, hay việc làm vào ngày trai giới tương tự như thế ấy; do nghiệp nào mà ngươi đã đi đến thế giới của chư Thiên?”
199. “Tôi là người có bệnh, bị khổ sở, là người bệnh, có dáng vóc bệnh hoạn ở trong căn nhà của mình. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc đã xa lìa ô nhiễm, vị đã vượt qua hoài nghi, đấng Thiện Thệ, có trí tuệ tuyệt vời.
200. Chính tôi đây, với ý vui mừng, với tâm tịnh tín, đã thực hiện việc chắp tay đến đức Như Lai. Sau khi làm việc thiện ấy, tôi đã đạt đến sự cộng trú ở cõi Ba Mươi (Ba).”
201. “Thật là kỳ diệu, phi thường! Quả thành tựu này của việc chắp tay là như thế. Tôi cũng vậy, với ý vui mừng, với tâm tịnh tín, tôi đi đến nương nhờ đức Phật ngay ngày hôm nay.”
202. “Ngay ngày hôm nay, với tâm tịnh tín ông hãy đi đến nương nhờ đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng. Tương tự y như thế, ông hãy thọ trì năm điều học không bị bể vỡ hay sứt mẻ.
203. Ông hãy lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, hãy xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, chớ có việc uống chất say và nói lời dối trá, và hãy vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”
204. “Thưa vị Dạ-xoa, ngài là người mong mỏi sự tốt đẹp cho tôi. Thưa vị Thiên nhân, ngài là người mong mỏi sự lợi ích cho tôi. Tôi thực hành lời nói của ngài; ngài là thầy dạy học của tôi.
205. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, luôn cả Giáo Pháp vô thượng, và tôi đi đến nương nhờ Hội Chúng thuộc về vị Trời của nhân loại.
206. Tôi lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và tôi không nói lời dối trá, và tôi vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”
Chuyện Ngạ Quỷ Maṭṭakuṇḍalī là thứ năm.
207. “Này Kaṇha, hãy đứng dậy. Việc gì ngài lại nằm? Lợi ích gì cho ngài với việc chiêm bao? Và này Kesava, người em trai ruột, trái tim và con mắt phải của ngài, cậu ấy bị các cơn gió xâm nhập, rồi lẩm bẩm về con thỏ.”
208. Sau khi lắng nghe lời nói ấy của vị Rohiṇeyya ấy, Kesava đã đứng dậy với vẻ vội vã, bị khổ sở bởi nỗi sầu muộn về người em trai.
209. “Có phải em, tựa như người điên (đi lang thang) khắp cả Dvāravatī này, lải nhải rằng: ‘Con thỏ, con thỏ.’ Em thích con thỏ loại như thế nào?
210. Anh sẽ bảo làm cho em con thỏ; nó làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng hồng ngọc, làm bằng bạc, hay làm bằng đá quý san hô?
211. Cũng có những loài thỏ nhỏ khác ở rừng, sinh sống ở trong rừng, chúng ta cũng sẽ bắt chúng về. Em thích con thỏ loại như thế nào?”
212. “Em không thích những con thỏ ấy, những con thỏ nương náu ở trái đất, em thích con thỏ từ mặt trăng. Này Kesava, hãy mang nó lại cho em.”
213. “Này người bà con, đúng là em đây sẽ lìa bỏ cuộc sống ngọt ngào. Em mong mỏi vật không thể mong mỏi, em thích con thỏ từ mặt trăng.”
214. “Này Kaṇha, nếu anh biết là như vậy thì anh mới nên khuyên bảo người khác như thế; tại sao đến bây giờ anh vẫn sầu muộn về đứa con trai đã chết trước đây?
215. Những việc nào không thể đạt được bởi con người hoặc ngay cả phi nhân (như là): ‘Mong rằng đứa con trai đã được sanh ra của tôi đừng chết,’ do đâu mà điều không thể đạt được sẽ trở nên đạt được?
216. Này Kaṇha, không thể đưa người quá vãng mà anh sầu muộn trở về bằng chú thuật, bằng thuốc men từ rễ cây, bằng các thần dược, hoặc bằng tài sản.
217. Những người có tài sản lớn, có của cải lớn, thậm chí những Sát-đế-lỵ cai quản vương quốc, có dồi dào tài sản và lúa gạo, ngay cả những người ấy cũng không phải là không già không chết.
218. Các vị Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, thương buôn, nô lệ, hạ tiện, hốt rác, những người này và những người khác là do sự sanh ra, ngay cả những người ấy cũng không phải là không già không chết.
219. Những người nào trì tụng chú thuật (Vệ Đà) gồm sáu phần đã được nghĩ ra bởi đấng Brahmā, những người này và những người khác là do sự sanh ra, ngay cả những người ấy cũng không phải là không già không chết. 220. Isayo vāpi ye santā saññatattā tapassino, sarīraṃ tepi kālena vijahanti tapassino.
220. Hoặc ngay cả những vị ẩn sĩ là các đạo sĩ khổ hạnh, có sự an tịnh, có bản thân đã được kiềm chế, ngay cả những vị đạo sĩ khổ hạnh ấy cũng lìa bỏ cơ thể theo thời gian.
221. Ngay cả những vị A-la-hán có bản thân đã được tu tập, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc, cũng quăng bỏ thân xác này do sự diệt tận của thiện và ác.”
222. “Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
223. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của tôi.
224. Chính tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có trạng thái mát lạnh, đã được an tịnh. Này em trai, sau khi lắng nghe em, anh không sầu muộn, không khóc lóc.”
225. Những bậc có trí tuệ hành xử như thế, họ là những bậc có lòng thương tưởng; các vị giúp cho vượt qua nỗi sầu muộn, tựa như Ghata (đã làm) đối với người anh trai vậy.
226. Người nào có những người cộng sự, những người hầu cận như thế ấy, tháp tùng với lời nói khôn khéo, tựa như Ghaṭa (đã làm) đối với người anh trai vậy.”
Chuyện Ngạ Quỷ của Kaṇha là thứ sáu.
227. “Ông lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân, lòi cả xương sườn, gầy guộc. Này ông, vậy thì ông là ai?”
228. “Thưa quý ngài, tôi là ngạ quỷ bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
229. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây ông đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”
230. “Có thành phố thuộc xứ sở Dasanna được biết tiếng là Erakaccha. Tại nơi ấy, trước đây tôi đã là nhà đại phú; mọi người đã biết tôi là ‘Dhanapāla.’
231. Tôi đã có tám mươi xe tải vàng thô; tôi có dồi dào vàng ròng, nhiều ngọc trai ngọc bích.
232. Cho dầu có tài sản lớn đến chừng ấy, sự yêu thích bố thí đã không có đối với tôi. Tôi đóng cửa lớn rồi mới ăn (nghĩ rằng): ‘Chớ để cho những kẻ ăn xin nhìn thấy ta.’
233. Tôi đã là người không có đức tin, bỏn xẻn, keo kiệt, là kẻ mắng nhiếc. Tôi đã cản ngăn nhiều người trong lúc họ đang bố thí, trong lúc họ đang thực hành (việc thu thúc, nói rằng):
234-235. ‘Không có quả thành tựu của việc bố thí, từ đâu có quả báo của việc thu thúc?’ Tôi đã phá hủy các hồ sen, các giếng nước, các khu vườn đã được trồng trọt, các trạm bố thí nước uống, và các lối vượt qua ở nơi hiểm trở. Tôi đây đã không làm việc tốt, đã làm việc ác, sau đó đã chết đi.
236-237. Tôi đã bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát. Năm mươi lăm năm kể từ khi tôi đã qua đời, tôi không biết đến việc đã được ăn hay là đã được uống nước. Cái gì là sự đeo níu, cái ấy là sự hư hỏng; cái gì là sự hư hỏng, cái ấy là sự đeo níu.
238. Nghe nói chính các ngạ quỷ biết rằng: ‘Cái gì là sự đeo níu, cái ấy là sự hư hỏng.’ Trước đây, tôi đã đeo níu, tôi đã không bố thí trong khi có nhiều tài sản.
239. Trong khi các vật bố thí đang hiện hữu, tôi đã không tạo lập hòn đảo (nương nhờ) cho bản thân; về sau tôi đây hối tiếc, khi gánh lấy hậu quả của nghiệp thuộc về bản thân.
240. Bốn tháng nữa, tôi sẽ chết. Tôi sẽ rơi vào địa ngục vô cùng khổ sở, ghê rợn.
241. Địa ngục có bốn góc, có bốn cửa, được phân chia thành các phần cân xứng, được bao quanh bằng tường sắt, được đậy lại bằng tấm sắt.
242. Mặt nền của nó làm bằng sắt, cháy rực, có sức nóng, tỏa rộng ra xung quanh một trăm do-tuần, và luôn luôn tồn tại.
243. Tại nơi ấy, trong thời gian dài tôi sẽ cảm thọ khổ, quả báo của nghiệp ác; vì thế tôi vô cùng sầu muộn.
244. Vì vậy, tôi nói với quý vị rằng: ‘Mong rằng điều tốt lành cho tất cả quý vị đã tụ hội ở đây. Quý vị chớ làm việc ác dầu là lộ liễu hay khuất lấp.
245. Bởi vì, nếu quý vị sẽ làm hoặc đang làm nghiệp ác, đối với quý vị sẽ không có sự thoát khỏi khổ đau, cho dầu quý vị bay lên trời chạy trốn.
246. Quý vị hãy thể hiện sự phục vụ mẹ, sự phục vụ cha, sự tôn kính các bậc trưởng thượng trong gia tộc, hãy thể hiện sự tôn kính các Sa-môn, các Bà-la-môn, như vậy quý vị sẽ đi đến cõi Trời.”
Chuyện Ngạ Quỷ Dhanapāla là thứ bảy.
247. “Thưa ngài, ngài là vị xuất gia, lõa lồ, ốm o. Ban đêm ngài đi đâu? Với lý do của việc gì? Xin ngài hãy nói với trẫm điều ấy, chúng tôi cũng có khả năng; trẫm có thể chu cấp cho ngài của cải cùng với mọi thứ.”
248. “Thành phố Bārāṇasī được tiếng vang đồn xa. Ở tại nơi ấy, tôi là người gia chủ giàu có, bủn xỉn, không bố thí, có tâm ham muốn về vật chất. Do bản tính xấu xa, tôi đã đi đến cảnh giới của Dạ-ma.
249. Vì những việc ấy, tôi đây bị khổ nhọc vì sự châm chích (bởi đói). Chính vì điều ấy, tôi đi đến nơi các thân quyến vì nguyên nhân vật thực. Nhưng họ không có bản tính bố thí, và không tin là có quả báo của sự bố thí trong đời sau.
250. Còn người con gái của tôi thường xuyên nói rằng: ‘Con sẽ dâng cúng vật thí đến các bậc cha ông.’ Họ đang cung phụng vật đã được chuẩn bị đến các vị Bà-la-môn, tôi đi đến Andhakavinda để thọ hưởng.”
251. Đức vua đã nói với ngạ quỷ ấy rằng: ‘Sau khi hưởng thụ vật ấy xong, ngài nên mau mau trở lại; trẫm cũng sẽ thực hiện việc cúng dường. Nếu có nguyên do, xin ngài hãy nói điều ấy với trẫm. Trẫm lắng nghe lời nói về nguyên do đáng được tin tưởng.’
252. Sau khi nói rằng: ‘Như vậy đi,’ ngạ quỷ ấy đã đi đến nơi ấy. Các vị Bà-la-môn đã thọ dụng bữa ăn, tuy nhiên họ không xứng đáng với sự cúng dường. Ngạ quỷ ấy đã quay trở lại Rājagaha lần nữa, rồi đã hiện ra phía trước vị lãnh đạo dân chúng.
253. Sau khi nhìn thấy ngạ quỷ đã đi đến thêm lần nữa, đức vua đã nói rằng: ‘Trẫm sẽ bố thí vật gì đây? Nếu có nguyên do, xin ngài hãy nói điều ấy với trẫm, nhờ đó ngài có thể được thỏa mãn lâu dài.’
254. ‘Thưa đức vua, sau khi cung phụng đức Phật và hội chúng bằng cơm ăn, luôn cả nước uống, và y phục, ngài hãy chỉ định sự cúng dường ấy nhằm sự lợi ích cho tôi; như vậy tôi có thể được thỏa mãn lâu dài.’
255. Vì thế, liền khi ấy đức vua đã đi xuống. Sau khi đã tự tay dâng cúng vật thí vô song đến Hội Chúng, đức vua đã thuật lại sự việc đến đức Thế Tôn và đã chỉ định sự cúng dường đến ngạ quỷ ấy.
256. Được cúng dường, ngạ quỷ ấy đã hiện ra phía trước vị lãnh đạo dân chúng, chói sáng vô cùng (nói rằng): ‘Tôi trở thành vị Dạ-xoa, đạt được thần thông tối thắng; loài người không sánh bằng hay tương đương với thần thông của tôi.
257. Xin đức vua hãy nhìn xem năng lực vô lượng này của tôi do ngài đã chỉ định sau khi dâng cúng vật vô song đến Hội Chúng; tôi thường xuyên được toại ý vào mọi lúc nhờ vào nhiều (vật thí của ngài). Thưa vị chúa của loài người, đã được hạnh phúc, tôi xin ra đi.”
Chuyện Ngạ Quỷ Cullaseṭṭhi là thứ tám.
Tụng phẩm thứ nhất.
258. “Vì mục đích của việc (buôn bán) ấy mà chúng ta mang theo tài sản đi đến Kamboja. Dạ-xoa này (có khả năng) ban cho điều ước muốn, vậy chúng ta nên dẫn theo Dạ-xoa này.
259. Chúng ta hãy giữ lấy Dạ-xoa này, bằng cách tốt đẹp hoặc là bằng võ lực, rồi cho người đưa lên xe, và hãy mau mau đi đến Dvāravatī.”
260. “Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của thân cây nào thì không nên bẻ gãy cành của nó, bởi vì phản bội bạn bè là xấu xa.”
261. “Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của thân cây nào thì có thể đốn ngã luôn cả thân của nó nếu nhu cầu là như thế ấy.”
262. “Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của thân cây nào thì không nên bẻ gãy lá của nó, bởi vì phản bội bạn bè là xấu xa.”
263. “Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của thân cây nào thì có thể bứng nó lên luôn cả gốc nếu nhu cầu là như thế ấy.”
264. “Người cư ngụ trong ngôi nhà của ai đó cho dầu chỉ một đêm và thọ nhận cơm ăn nước uống ở nơi ấy, thì không nên suy nghĩ đến điều xấu xa đối với vị (chủ nhà) ấy dầu chỉ bằng tâm ý; trạng thái biết ơn đã được các bậc chân nhân ca ngợi.
265. Người cư ngụ trong ngôi nhà của ai đó cho dầu chỉ một đêm và được phục vụ cơm ăn nước uống, thì không nên suy nghĩ đến điều xấu xa đối với vị (chủ nhà) ấy dầu chỉ bằng tâm ý; bàn tay của người không phản bội tiêu diệt kẻ phản bội bạn bè.
266. Kẻ nào trước đây có việc tốt lành đã được (người khác) làm (cho mình) về sau hãm hại (ân nhân) một cách độc ác, người giết hại mạng sống ân nhân, kẻ ấy không gặp những điều may mắn.”
267. “Kẻ nào mắng nhiếc người trong sạch, không bị hư hỏng, không có vết nhơ, điều xấu xa trở về lại chính kẻ ngu ấy, tựa như bụi bặm nhỏ nhoi đã được ném ngược chiều gió.”
268. “Ta không dễ dàng bị khuất phục bởi vị Thiên nhân, hoặc bởi con người, hoặc bởi quyền uy. Ta là Dạ-xoa, đã đạt đến thần lực tối cao, có sự di chuyển xa, đã đạt được sắc đẹp và sức mạnh.”
269. “Bàn tay của ngài là vàng toàn bộ, năm ngón tay là nguồn mật ngọt, có nhiều dịch chất tiết ra; tôi nghĩ rằng ngài là (Chúa Trời) Purindada (người đã bố thí trước đây).”
270. “Ta không là Thiên nhân, không là nhạc sĩ Thiên đình, cũng không là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây. Này Aṅkura, hãy biết ta là ngạ quỷ đã từ Bheruva đi đến nơi này.”
271. “Trước đây ở Bheruva ngài đã có giới hạnh gì, có sự thực hành gì? Do hạnh kiểm cao đẹp nào của ngài mà phước báu được thành tựu ở nơi bàn tay?”
272. “Trước đây ta đã là thợ may. Khi ấy ta ở Bheruva, có sự sinh sống rất khó khăn, nghèo khó; ta không có gì để bố thí.
273. Nơi làm việc của ta đã ở khu vực lân cận với Asayha, là người thí chủ có đức tin, đã làm việc phước thiện, có liêm sỉ.
274. Tại nơi ấy, những kẻ hành khất, những người nghèo túng thuộc phe nhóm khác nhau đi đến. Và họ hỏi ta về chỗ trú ngụ của Asayha.
275. ‘Chúng tôi sẽ đi đến nơi đâu? Chúc bạn tốt lành. Nơi nào vật thí được ban phát?’ Được họ hỏi, ta sẽ nói cho họ chỗ trú ngụ của Asayha.
276. Sau khi duỗi ra cánh tay phải, (nói rằng): ‘Các người hãy đi đến nơi ấy. Chúc các người tốt lành. Nơi ấy vật thí được ban phát, ở chỗ trú ngụ của Asayha.’
277. Do việc ấy bàn tay có sự ban cho điều ước muốn, do việc ấy bàn tay có nguồn mật ngọt, do hạnh kiểm cao đẹp ấy của ta mà phước báu được thành tựu ở nơi bàn tay.”
278. “Nghe rằng ngài đã không tự tay mình ban phát vật thí đến bất cứ ai, trong khi tùy hỷ sự bố thí của người khác, ngài đã duỗi bàn tay ra và chỉ lối.
279. Do việc ấy bàn tay có sự ban cho điều ước muốn, do việc ấy bàn tay có nguồn mật ngọt, do hạnh kiểm cao đẹp ấy của ngài mà phước báu được thành tựu ở nơi bàn tay.
280. Thưa ngài, được tịnh tín, người ấy đã tự tay mình ban phát vật thí, vậy sau khi từ bỏ thân xác loài người, người ấy đã đi đến phương trời nào?”
281. “Ta không biết được việc đi hay là việc đến của Aṅgīrasa, bậc chịu đựng điều không thể chịu đựng, nhưng ta đã được nghe trong sự hiện diện của (Thiên Vương) Vessavaṇa rằng Asayaha đã đi đến cộng trú với (Chúa Trời) Sakka.”
282. “Quá đủ để làm việc tốt lành, để ban phát vật thí tùy theo khả năng. Sau khi nhìn thấy bàn tay có sự ban cho điều ước muốn, người nào mà chẳng làm việc phước thiện?
283. Đương nhiên, chính tôi đây sau khi từ nơi này ra đi và sau khi về đến Dvāravatī, tôi sẽ tiến hành việc bố thí, là việc mang lại sự an lạc cho tôi.
284. Tôi sẽ bố thí cơm ăn và nước uống, vải vóc và chỗ trú ngụ, trạm bố thí nước uống, giếng nước, và các lối vượt qua ở nơi hiểm trở.”
285. “Do điều gì mà ngươi có ngón tay cong queo, có khuôn mặt bị làm thành méo mó, và các con mắt rỉ nước, việc xấu xa gì đã do ngươi gây ra?”
286. “Trong lúc gia chủ Aṅgīrasa có đức tin đang ở nhà, tôi đã là người chủ chốt trong việc bố thí ở nơi phân phát thức ăn của ông ấy.
287. Ở tại nơi ấy, sau khi nhìn thấy những người hành khất có nhu cầu về thức ăn đi đến, tôi đã tránh sang một bên rồi đã làm khuôn mặt méo mó.
288. Do điều ấy mà tôi có ngón tay cong queo, có khuôn mặt bị làm thành méo mó, và các con mắt rỉ nước, việc xấu xa ấy đã do tôi gây ra.”
289. “Này kẻ tội lỗi, ngươi có ngón tay cong queo, có khuôn mặt bị làm thành méo mó, và các con mắt rỉ nước là đúng theo pháp, bởi vì ngươi đã làm khuôn mặt méo mó đối với việc bố thí của người khác.”
290. “Tại sao trong khi ban phát vật thí về cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc, và chỗ trú ngụ, mà lại có thể nhờ cậy người khác?”
291. “Đương nhiên, chính tôi đây sau khi từ nơi này ra đi và sau khi về đến Dvāravatī, tôi sẽ tiến hành việc bố thí, là việc mang lại sự an lạc cho tôi.
292. Tôi sẽ bố thí cơm ăn và nước uống, vải vóc và chỗ trú ngụ, trạm bố thí nước uống, giếng nước, và các lối vượt qua ở nơi hiểm trở.”
293. Từ nơi ấy, sau khi quay trở về và đã đạt đến Dvāravatī, vị Aṅkura ấy đã tiến hành việc bố thí, là việc mang lại sự an lạc cho bản thân.
294. Aṅkura đã bố thí cơm ăn và nước uống, vải vóc và chỗ trú ngụ, trạm bố thí nước uống, và giếng nước với tâm ý thanh tịnh.
295. ‘Ai đói? Và ai khát? Ai sẽ mặc vải vóc? Những con thú kéo xe của ai bị mệt nhọc, hãy chọn những con thú ở đây thắng vào cỗ xe.
296. Ai muốn lọng che và vật thơm? Ai tràng hoa? Ai giày dép?’ Những người thợ cạo, đầu bếp, và buôn bán hương liệu luôn rao vang như thế, ban đêm và ban ngày, ở nơi ấy, tại chỗ trú ngụ của Aṅkura.
297. “‘Aṅkura ngủ an lạc,’ dân chúng biết về ta như vậy. Này Sindhaka, ta ngủ khổ sở bởi vì ta không nhìn thấy các hành khất.
298. ‘Aṅkura ngủ an lạc,’ dân chúng biết về ta như vậy. Này Sindhaka, ta ngủ khổ sở khi các người nghèo túng là ít ỏi.”
299. “Nếu Sakka, Chúa Tể cõi Ba Mươi Ba và toàn thể thế gian, ban cho ngài điều ước muốn, thì trong khi ước muốn, ngài sẽ ước muốn điều ước muốn về việc gì?”
300. “Nếu Sakka, Chúa Tể cõi Ba Mươi Ba, ban cho ta điều ước muốn thì: vào thời điểm ta đang thức dậy là lúc mọc lên của mặt trời, có các món ăn của cõi Trời hiện ra và các hành khất là có giới hạnh.
301. Khi ta đang bố thí thì (vật thí) không bị cạn kiệt, sau khi bố thí thì ta không hối tiếc, trong khi bố thí thì tâm được tịnh tín, ta ước muốn điều ước muốn của Sakka là như thế.”
302. “Không nên ban bố tất cả của cải cho kẻ khác, nên ban phát vật thí và nên bảo vệ tài sản; chính vì thế tài sản hiển nhiên là hơn sự bố thí, với sự ban phát quá mức thì các gia đình không còn tồn tại.
303. Các bậc sáng suốt không khen ngợi việc không bố thí và việc bố thí quá mức; chính vì thế tài sản hiển nhiên là hơn sự bố thí; người có bản tính sáng suốt nên hành xử theo lối trung dung.”
304. “Ôi, thật vậy sao, thưa ông. Tôi sẽ còn bố thí, bởi vì những người tốt, các bậc chân nhân sẽ cộng sự với tôi, tựa như cơn mưa đang làm tràn đầy những vùng đất trũng, tôi nên làm cho tất cả những người nghèo túng được toại ý.
305. Người nào sau khi nhìn thấy các hành khất mà có vẻ mặt tươi tắn, sau khi bố thí mà có tâm ý hoan hỷ; điều ấy là hạnh phúc của người đang sống tại gia.
306. Người nào sau khi nhìn thấy các hành khất mà có vẻ mặt tươi tắn, sau khi bố thí mà có tâm ý hoan hỷ; điều ấy là sự thành công của việc dâng hiến.
307. Ngay trước khi bố thí có tâm hoan hỷ, trong khi bố thí nên làm cho tâm được tịnh tín, và sau khi đã bố thí có tâm hoan hỷ; điều ấy là sự thành công của việc dâng hiến.”
308. “Bữa ăn thường xuyên được bố thí cho mọi người ở chỗ trú ngụ của Aṅkura, con người mong mỏi việc dâng hiến, là sáu mươi ngàn cỗ xe.
309. Ba ngàn đầu bếp chính, có các bông hoa tai bằng ngọc ma-ni đã được trau chuốt, sống phụ thuộc vào Aṅkura, bận rộn với vật dâng hiến trong việc bố thí.
310. Sáu mươi ngàn người nam, là các thanh niên, có các bông hoa tai bằng ngọc ma-ni đã được trau chuốt, bổ củi ở cuộc đại thí của Aṅkura.
311. Mười sáu ngàn phụ nữ, những người đàn bà đã được điểm trang với mọi thứ trang sức, nhồi trộn các món (gia vị) ở cuộc đại thí của Aṅkura.
312. Mười sáu ngàn phụ nữ đã được điểm trang với mọi thứ trang sức, cầm thìa phục vụ ở cuộc đại thí của Aṅkura.
313. Vị Sát-đế-lỵ đã ban phát nhiều (vật) đến nhiều (người), đã tự tay ban phát trong một thời gian dài, một cách nghiêm chỉnh, sau khi đã thể hiện sự tôn trọng, lần này đến lần khác.
314. Aṅkura đã tiến hành cuộc đại thí trong khoảng thời gian dài, trong nhiều tháng, nhiều nửa tháng, nhiều mùa, và nhiều năm.
315. Aṅkura đã bố thí và dâng hiến như vậy trong khoảng thời gian dài, sau khi từ bỏ thân xác loài người, vị ấy đã đi đến cõi Ba Mươi Ba.”
316. “Indaka đã dâng phần thức ăn một muỗng đến ngài Anuruddha, sau khi từ bỏ thân xác loài người, vị ấy đã đi đến cõi Ba Mươi Ba.
317. Indaka sáng chói vượt trội Aṅkura về mười phương diện: về sắc, về thinh, về vị, về hương, về xúc làm thích ý, ...
318. ... về tuổi thọ, luôn cả về danh tiếng, về sắc đẹp, về hạnh phúc, và về quyền hành; Indaka sáng chói vượt trội Aṅkura.”
319. “Này Aṅkura, cuộc đại thí đã được ngươi bố thí trong thời gian dài. Ngươi ngồi quá xa, hãy tiến đến gần Ta.”
320. Ở cõi Ba Mươi Ba, khi ấy đức Phật, bậc Tối Thượng Nhân, đã trú ngụ ở gốc cây san hô, nơi tảng đá Paṇḍukambala.
321. Chư Thiên ở mười (ngàn) thế giới tụ hội lại hầu cận đấng Toàn Giác đang cư ngụ ở đỉnh ngọn núi.
322. Không có vị Thiên nhân nào sáng chói vượt trội đấng Toàn Giác về màu da; sau khi vượt trội tất cả chư Thiên, chỉ đấng Toàn Giác chói sáng.
323. Khi ấy, Aṅkura ấy đã ở cách mười hai do-tuần, còn Indaka chói sáng vượt trội ở không xa đức Phật lắm.
324. Sau khi quan sát Aṅkura luôn cả Indaka, đấng Toàn Giác, trong lúc nhấn mạnh về đối tượng xứng đáng cúng dường, đã nói lời nói này:
325. ‘Này Aṅkura, cuộc đại thí đã được ngươi bố thí trong thời gian dài. Ngươi ngồi quá xa, hãy tiến đến gần Ta.’
326. Được khích lệ bởi bậc có bản thân đã được tu tập, Aṅkura đã đáp lại lời này: ‘Con được gì với sự bố thí ấy, khi có tình trạng thiếu vắng đối tượng xứng đáng cúng dường?
327. Dạ-xoa Indaka này đây sau khi dâng cúng vật thí chút ít thì chói sáng vượt trội chúng con, giống như mặt trăng ở quần thể các vì sao.’
328. ‘Giống như hạt giống, dẫu nhiều, đã được gieo ở thửa ruộng cằn cỗi, kết quả là không dồi dào, cũng không làm người nông phu vui mừng.
329. Tương tự y như thế, nhiều vật thí đã được thiết lập ở những kẻ có giới tồi, quả báo là không dồi dào, cũng không làm người thí chủ vui mừng.
330. Cũng giống như hạt giống, dẫu ít, đã được gieo ở thửa ruộng màu mỡ, khi được ban cho mưa đều đặn, kết quả khiến người nông phu vui mừng.
331. Tương tự y như thế, hành động dầu nhỏ nhoi được làm ở các vị có giới có đức hạnh như thế ấy, phước báu là có kết quả lớn lao.’
332. Sau khi cân nhắc vật thí nên được bố thí nơi nào khiến vật đã được bố thí có quả báo lớn lao, các thí chủ, sau khi cân nhắc rồi dâng cúng vật thí, đi đến cõi Trời.
333. Sự bố thí sau khi cân nhắc được đấng Thiện Thệ khen ngợi. Những vị nào là đối tượng xứng đáng cúng dường ở thế giới sinh vật này đây, các vật đã được bố thí ở những vị ấy có những quả báo lớn lao, giống như các hạt giống đã được gieo ở thửa ruộng tốt.”
Chuyện Ngạ Quỷ của Aṅkura là thứ chín.
334. Khi vị tỳ khưu đã đi đến chỗ nghỉ trưa và đã ngồi xuống ở bờ sông Gaṅgā, có nữ ngạ quỷ xấu xí, với dáng vẻ ghê rợn, đã bước đến gần vị ấy.
335. Mái tóc của cô ấy rất dài rủ xuống đến mặt đất. Được che phủ bằng mái tóc, cô ấy đã nói với vị Sa-môn điều này:
336. “Năm mươi lăm năm kể từ khi tôi từ trần, tôi không biết đến việc đã được ăn hoặc ngay cả việc đã được uống nước. Thưa ngài, xin ngài hãy cho nước uống, tôi bị khát, tôi cần nước uống.”
337. “Sông Gaṅgā này có nước mát chảy ra từ núi Hi-mã-lạp. Hãy lấy (nước) từ nơi ấy rồi uống, việc gì ngươi lại cầu xin ta nước uống?”
338. “Thưa ngài, nếu tôi tự mình lấy nước uống từ sông Gaṅgā, nó biến thành máu đối với tôi, vì thế tôi cầu xin nước uống.”
339. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà sông Gaṅgā trở thành máu đối với ngươi?”
340. “Con trai tôi tên Uttara, có đức tin, đã là cận sự nam. Và không theo sự mong muốn của tôi, nó đã cúng dường đến các vị Sa-môn (các vật):
341. Y phục và vật thực, vật dụng, chỗ nằm ngồi. Bị khó chịu vì tính bỏn xẻn, tôi mắng nhiếc nó rằng:
342. ‘Vật nào mà con đã cúng dường đến các vị Sa-môn không theo sự mong muốn của mẹ là y phục và vật thực, vật dụng, chỗ nằm ngồi, ...
343. ... này Uttara, vật ấy hãy trở thành máu đối với con trong kiếp sống kế tiếp.’ Do quả thành tựu của nghiệp ấy mà sông Gaṅgā trở thành máu đối với tôi.”
Chuyện Ngạ Quỷ - Mẹ của Uttara là thứ mười.
344. “Trước đây, thiếp đã dâng cúng chỉ sợi đến bậc xuất gia là vị tỳ khưu đã đi đến yêu cầu. Quả thành tựu của việc ấy là quả báo dồi dào được thành tựu, và nhiều koṭi vải vóc được phát sanh đến thiếp.’
345. Thiên cung được rải rắc bông hoa, được vui sướng, có nhiều tranh vẽ, được các người nam người nữ lai vãng. Thiếp đây hưởng thụ và choàng đắp (vải vóc); có nhiều của cải và còn chưa đến lúc bị cạn kiệt.
346. Tiếp theo quả thành tựu của chính nghiệp ấy, có sự an lạc và thoải mái được thành tựu ở nơi đây. Thiếp đây, sau khi đi đến cõi nhân loại thêm lần nữa, sẽ làm các việc phước thiện. Thưa công tử, hãy đưa thiếp về.”
347. “Nàng đã đến đây được bảy trăm năm. Ở nơi ấy, nàng sẽ là người già nua và trưởng thượng, hết thảy tất cả thân quyến của nàng đã từ trần. Nàng sẽ làm gì sau khi từ đây đi đến nơi ấy?”
348. “Thiếp đã đi đến nơi này chỉ mới bảy năm, thiếp đã có được sự an lạc của cõi Trời. Thiếp đây, sau khi đi đến cõi nhân loại thêm lần nữa, sẽ làm các việc phước thiện. Thưa công tử, hãy đưa thiếp về.”
349. Sau khi đã nắm lấy nàng một cách chắc chắn ở cánh tay, vị ấy đã đưa nàng, (nay là) bà lão vô cùng yếu ớt, trở về (dặn rằng): “Nàng hãy nói với những người khác nữa đã đi đến nơi này rằng: ‘Quý vị hãy làm các việc phước thiện, sự an lạc (sẽ) được thành tựu.
350. Tôi đã nhìn thấy các ngạ quỷ bị sầu khổ do không làm việc tốt lành, loài người cũng tương tự như vậy. Và sau khi tạo nghiệp đưa đến cảm thọ an lạc, chư Thiên và nhân loại là dòng dõi trụ vững trong sự an lạc.’”
Chuyện Ngạ Quỷ Sợi Chỉ là thứ mười một.
351. Các bậc cấp của cầu thang bằng vàng được trải cát bằng vàng, các bông súng trắng ở nơi ấy dễ thương, có mùi thơm tinh khiết, làm thích ý.
352. (Hồ nước) được che phủ bởi nhiều cây cối khác nhau, được lan tỏa với nhiều mùi thơm khác nhau, được che phủ bởi nhiều loại sen khác nhau, được trải rộng với những cây sen trắng.
353. (Hồ nước) được lay động bởi làn gió, tự tỏa ra các hương thơm, làm hài lòng, với những tiếng kêu của chim thiên nga và chim cò, với những tiếng hót của loài hồng hạc.
354. (Hồ nước) được đông đảo bởi những bầy chim khác nhau đã kết thành nhóm có âm giọng khác nhau, có những cây trổ các loại quả khác nhau, có những khu rừng đơm hoa khác loại.
355. Thành phố này như vầy không giống với bất cứ nơi nào của loài người. Nàng có nhiều tòa lâu đài làm bằng vàng và bạc.
356. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, các tòa lâu đài chiếu sáng bốn phương ở xung quanh. Nàng có năm trăm nữ tỳ là những người nữ hầu cận cho nàng.
357. Các cô ấy có mang vòng và xuyến, được điểm trang với vòng hoa đội đầu bằng vàng. Nàng có nhiều chiếc ghế dài làm bằng vàng và bạc.
358. Chúng được bao phủ bằng da của loài nai kadali, được chuẩn bị sẵn, được trải tấm thảm len lông dài, nơi ấy nàng đến nằm nghỉ, có sự thành tựu đầy đủ mọi lạc thú.
359. Đến lúc nửa đêm, từ nơi ấy nàng đứng dậy ra đi. Nàng đã đi đến khu vực vườn hoa bao quanh hồ nước.
360. Rồi nàng đứng lại ở bờ hồ, nơi có cỏ non xanh xinh đẹp. Kế đó, có con chó bị xẻo tai cắn xé từng phần thân thể của nàng.
361. Và khi đã bị nhai ngấu nghiến, đã bị làm thành bộ xương, nàng đã chìm sâu trong hồ nước, và thân thể (nàng) trở lại giống như trước đây.
362. Sau đó, nàng có thân thể phục hồi toàn vẹn, vô cùng xinh xắn, có dáng vẻ đáng yêu. Sau khi đã trùm lại bằng vải vóc, nàng đi đến gần bên ta.
363. Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà con chó bị xẻo tai lại cắn xé từng phần thân thể của nàng?”
364. “Ở Kimbilā đã có người gia chủ là người cận sự nam có đức tin. Thiếp đã là vợ của ông ấy, có giới hạnh xấu xa, là kẻ phụ tình.
365. Trong khi thiếp phụ tình, ông ấy đã nói với thiếp điều này: ‘Việc nàng phụ tình tôi, việc ấy không đúng đắn, không tốt đẹp.’
366. Và thiếp đây đã nói lời thề ghê rợn và là lời nói dối: ‘Thiếp không phụ tình chàng bằng thân hay bằng ý.
367. Nếu thiếp phụ tình chàng bằng thân hay bằng ý, hãy để cho con chó bị xẻo tai cắn xé từng phần thân thể của thiếp.’
368. Quả thành tựu của cả hai, của nghiệp ấy và của việc nói dối, thiếp đã chịu đựng bảy trăm năm kể từ khi ấy, và con chó bị xẻo tai cắn xé từng phần thân thể của thiếp.
369. Và tâu bệ hạ, ngài có nhiều ân đức, ngài đã đi đến đây vì lợi ích của thiếp. Thiếp đã khéo được thoát khỏi hồ Kaṇḍamuṇḍa, không còn sầu muộn, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.
370. Tâu bệ hạ, thiếp xin lễ bái ngài, thiếp chắp tay cầu xin ngài. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy thọ hưởng các dục lạc không phải của loài người, xin ngài hãy cùng với thiếp vui thú.”
371. “Trẫm đã thọ hưởng các dục lạc không phải của loài người, trẫm đã được cùng nàng vui thú. Hỡi cô nàng có phước phần, trẫm cầu xin nàng, này hãy mau mau đưa trẫm trở về.”
Chuyện Ngạ Quỷ ở Hồ Kaṇṇamuṇḍa là thứ mười hai.
372. Xưa có đức vua Brahmadatta, vị chúa của các kỵ sĩ thuộc xứ sở Pañcāla. Khi ấy, sau khi trải qua những ngày và đêm, đức vua đã từ trần.
373. Người vợ Ubbarī đã đi đến nơi hỏa táng của vị ấy than khóc. Trong khi không nhìn thấy Brahmadatta, nàng than khóc rằng: “Ôi Brahmadatta!”
374. Và vị ẩn sĩ ở nơi ấy, bậc hiền trí đầy đủ đức hạnh, đã đi đến. Và ở nơi ấy, vị ấy đã hỏi những người đã tụ tập ở nơi ấy rằng:
375. “Đài hỏa táng này là của ai mà được tỏa ra với nhiều mùi thơm khác nhau? Nàng này là vợ của ai mà than khóc người chồng đã từ nơi này đi xa?
376. Trong khi không nhìn thấy Brahmadatta, nàng than khóc rằng: ‘Ôi Brahmadatta!’” Và những người đã tụ tập ở nơi ấy, họ đã giải thích về việc ấy rằng:
377. “Thưa ngài đại đức, là của (đức vua) Brahmadatta. Thưa tôn ông, là của (đức vua) Brahmadatta. Đài hỏa táng này là của vị ấy nên được tỏa ra với nhiều mùi thơm khác nhau.
378. Nàng này là vợ của vị ấy nên than khóc chồng đã từ nơi này đi xa. Trong khi không nhìn thấy Brahmadatta, nàng than khóc rằng: ‘Ôi Brahmadatta!’”
379. “Tám mươi sáu ngàn người có tên là Brahmadatta đã được thiêu đốt ở đài hỏa táng này, nàng sầu muộn cho ai trong số những người ấy?”
380. “Thưa ngài, vị nào là đức vua, con trai của Cūḷanī, vị chúa của các kỵ sĩ thuộc xứ sở Pañcāla, tôi sầu muộn cho vị ấy, người chồng đã ban cho mọi điều ước muốn.”
381. “Toàn thể tất cả đã là các vị vua, đều có tên là Brahmadatta. Toàn thể tất cả đều là con trai của Cūḷanī, là những vị chúa của các kỵ sĩ thuộc xứ sở Pañcāla.
382. Nàng đã làm chánh hậu của tất cả theo tuần tự, tại sao nàng lại từ bỏ những người trước kia mà chỉ sầu muộn cho người sau cùng?”
383. “Thưa tôn ông, ngài nói về tôi đây đã là người nữ nhiều lần trong sự luân hồi, có phải bản thân tôi đã là người nữ trong thời gian dài?”
384. “Nàng đã là người nữ, nàng đã là người nam, nàng cũng đã đi đến ở bào thai của loài thú, việc ấy là như vậy, (nhưng) không được xem là giới hạn của những kiếp quá khứ.”
385. “Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, tôi có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
386. Quả vậy, mũi tên sầu muộn cắm ở tim của tôi đã được nhổ lên, trong khi tôi bị ưu phiền vì nỗi sầu muộn, ngài đã xua tan nỗi sầu muộn về người chồng cho tôi.
387. Tôi đây, với mũi tên đã được rút ra, có được trạng thái mát mẻ, được an tịnh. Thưa bậc đại hiền trí, sau khi lắng nghe ngài, tôi không sầu muộn, tôi không khóc than.”
388. “Sau khi lắng nghe lời nói ấy của của vị ấy, lời đã được khéo nói của vị Sa-môn, nàng đã cầm lấy bình bát và y, rồi đã xuất gia sống đời không nhà.
389. Và nàng ấy, trong khi đã được xuất gia, rời nhà sống không nhà, đã tu tập tâm từ nhằm đạt đến thế giới Phạm Thiên.
390. Trong khi lang thang từ làng này sang làng khác, đến các thị trấn, các kinh thành, nàng đã từ trần ở ngôi làng tên Uruvelā.
391. Sau khi phát triển tâm từ nhằm đạt đến thế giới Phạm Thiên, sau khi xa lìa tâm của người nữ, nàng đã đi đến thế giới Phạm Thiên.”
Chuyện Ngạ Quỷ của Ubbarī là thứ mười ba.
Phẩm Ubbarī là thứ nhì.
Tóm Lược Phẩm Này
(Ngạ quỷ) vàng vọt, người mẹ, và người chồng, Nandā, Maṭṭakuṇḍalī, Ghaṭa (Kaṇha), hai người đại phú, người thợ may (Aṅkura), nghỉ trưa (Mẹ của Uttara), chỉ sợi, cầu thang (hồ Kaṇṇamuṇḍa), Ubbarī.
--ooOoo--
392. “Ngươi di chuyển ở đây, nơi con sông Gaṅgā, không làm (mặt) nước bị vỡ ra. Ngươi lõa lồ, nửa phần bên trên không giống ngạ quỷ, có mang tràng hoa, đã được trang điểm. Này ngạ quỷ, ngươi sẽ đi đâu? Chỗ trú ngụ sẽ là nơi nào?”
393. Ngạ quỷ ấy nói rằng: ‘Tôi sẽ đi đến Cundatthika, ở trong khoảng đường đi đến làng vāsabha, và ở vùng phụ cận của Bārāṇasī.’
394. Và sau khi nhìn thấy ngạ quỷ ấy, viên quan đại thần nổi tiếng tên Koliya đã bố thí đến ngạ quỷ ấy bánh lúa mạch, thức ăn, và hai xấp vải màu vàng.
395. Khi con thuyền đang dừng lại, viên quan đại thần đã bảo cho (các vật trên) đến người thợ cạo; khi đã được ban phát đến người thợ cạo thì ngay lập tức (các vật thí) được thấy ở (cơ thể của) ngạ quỷ.
396. Do đó, (ngạ quỷ) được mặc vải đẹp, có mang tràng hoa, đã được trang điểm. Sự cúng dường được đặt đúng chỗ đã có lợi ích đến ngạ quỷ ấy. Bởi thế, vì lòng thương tưởng quý vị nên bố thí đến các ngạ quỷ lần này đến lần khác.
397. Một số có sự ăn mặc rách rưới, một số khác che đậy bằng mái tóc, các ngạ quỷ di chuyển, ra đi hướng này hướng khác vì thức ăn.
398. Một số chạy đi đến các nơi xa, không được thọ lãnh, đã quay trở lại, bị đói, bị choáng váng, lảo đảo, quỵ xuống ở mặt đất.
399. Tại nơi ấy, một số nào đó bị té ngã, quỵ xuống ở mặt đất, tựa như bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vào mùa hạ, do trong thời quá khứ đã không làm việc tốt lành.
400. ‘Chúng tôi, trong thời quá khứ, có bản tính xấu xa, là nữ gia chủ, là những người mẹ trong gia đình; trong khi các vật bố thí đang hiện hữu, chúng tôi đã không tạo lập hòn đảo (nương nhờ) cho bản thân.
401. Ngay cả khi có nhiều cơm ăn nước uống thậm chí bị quăng bỏ, chúng tôi đã không bố thí bất cứ vật gì đến bậc xuất gia đã thực hành chân chánh.
402. Là những người ưa thích công việc sai trái, biếng nhác, ưa thích ngọt ngào, ham ăn, là những thí chủ cho thức ăn từng vắt nhỏ, chúng tôi mắng nhiếc những người nhận.
403. Những căn nhà ấy và những tớ gái ấy, luôn cả những vật trang sức ấy của chúng tôi, chúng phục vụ những người khác, còn chúng tôi lãnh phần khổ đau.
404. (Khi hết thời hạn ngạ quỷ, được sanh làm người) họ là những thợ đan tre bị khinh rẻ, và những người thợ đóng xe gian dối, là những người hạ tiện nghèo khó, và là những người hầu tắm lần này đến lần khác.
405. Những gia đình nào là hạ tiện và nghèo khó, họ sanh ra ngay ở những gia đình ấy đấy; đây là phần số của những kẻ bỏn xẻn.
406. Những người nào, ngay trong thời quá khứ đã làm việc tốt lành, là những thí chủ đã xa lìa sự bỏn xẻn, những người ấy làm cho cõi Trời được tràn ngập và vườn hoa Nandana được chiếu sáng.
407. Họ vui thích ở tòa lâu đài Vejayanta, có dục lạc theo như ước muốn. Từ nơi đó chết đi, họ được sanh vào các gia tộc quý phái có của cải.
408. Ở ngôi nhà mái nhọn và ở tòa lâu đài, ở chiếc ghế dài được trải tấm thảm len lông dài, các phần cơ thể (của họ) được quạt mát bởi những người cầm quạt lông công; được sanh ra ở gia đình danh giá, họ là những người có danh tiếng.
409. Có mang tràng hoa, được trang điểm, họ di chuyển từ sự ẵm bồng này đến sự ẵm bồng khác; các vú nuôi hầu cận đêm ngày, tìm cách tạo sự thoải mái.
410. (Vườn hoa) không sầu muộn Nandana đáng yêu, khu vườn lớn ở cõi Ba Mươi (Ba), nơi này không dành cho những người đã không làm việc phước thiện, nơi này chỉ dành cho những người đã làm việc phước thiện.
411. Đối với những người đã không làm việc phước thiện, thì không có sự an lạc ở đời này và đời sau; còn đối với những người đã làm việc phước thiện, thì có sự an lạc ở đời này và luôn cả đời sau nữa.
412. Những người có ước muốn được cộng sự với các vị (chư Thiên) ấy cần phải làm nhiều việc thiện, bởi vì những người đã làm việc phước thiện vui sướng ở cõi Trời, có đầy đủ của cải.”
Chuyện Ngạ Quỷ Không Làm (Mặt) Nước Bị Vỡ Ra là thứ nhất.
413. Vị trưởng lão của thành phố Kuṇḍi có sự cư ngụ ở núi Sānuvāsī, có tên là Poṭṭhapāda, là vị Sa-môn có giác quan đã được tu tập.
414. Mẹ, cha, em trai của vị ấy bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây họ đã đi đến thế giới ngạ quỷ.
415. Họ bị đọa đày, bị khổ sở như kim chích, lõa lồ, gầy guộc. Trong khi sợ hãi, có nỗi sợ hãi lớn lao, có nghiệp ghê rợn, họ không hiện hình cho thấy.
416. Người em trai của vị ấy, lõa lồ, một mình trên lối đi bộ, quỳ chống hai tay, đã vội vã tiến đến và hiện hình ra cho vị trưởng lão nhìn thấy.
417. Và vị trưởng lão không để ý đến, có trạng thái im lặng, đã bước đi. Và người ấy đã cho vị trưởng lão biết rằng: ‘Tôi là em trai, đã trở thành ngạ quỷ.
418. Thưa ngài, mẹ và cha của ngài bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây họ đã đi đến thế giới ngạ quỷ.
419. Họ bị đọa đày, bị khổ sở như kim chích, lõa lồ, gầy guộc. Trong khi sợ sệt, có nỗi sợ hãi lớn lao, có nghiệp ghê rợn, họ không hiện hình cho thấy.
420. Là người có lòng bi mẫn, xin ngài hãy thương xót. Xin ngài hãy bố thí rồi chỉ định (việc ấy là) dành cho chúng tôi. Nhờ vào vật thí đã được ngài bố thí, những kẻ có nghiệp ghê rợn sẽ được nuôi sống.’
421. Sau khi đi khất thực, vị trưởng lão và mười hai vị tỳ khưu khác nữa đã tụ tập tại một chỗ với lý do phân chia vật thực.
422. Vị trưởng lão đã nói với toàn bộ tất cả các vị ấy rằng: ‘Xin các vị hãy cho tôi phần đã nhận được, tôi sẽ thực hiện bữa ăn dâng đến Hội Chúng, vì lòng thương xót các thân quyến.’
423. Các vị đã trao cho vị trưởng lão. Vị trưởng lão đã thỉnh mời hội chúng. Sau khi dâng cúng, vị trưởng lão đã chỉ định đến mẹ, cha, và em trai:
424. ‘(Phước báu) này là thuộc về các thân quyến của tôi; mong rằng các thân quyến được an vui.’ Khi được chỉ định thì vật thực đã được sanh lên ngay lập tức.
425. (Vật thực) là sạch sẽ, hảo hạng, được đầy đủ, có nước xúp với nhiều gia vị. Kế đó, người em trai đã hiện ra, có sắc vóc, có sức mạnh, có sự an lạc.
426. ‘Thưa ngài, có nhiều thức ăn rồi. Xin ngài hãy nhìn xem chúng tôi bị lõa lồ. Thưa ngài, xin ngài hãy nỗ lực như thế nào đó cho chúng tôi có thể đạt được vải vóc.’
427. Sau khi góp nhặt những mảnh vải rách từ nơi đống rác, vị trưởng lão đã chế biến vải vụn thành y phục rồi dâng đến Hội Chúng bốn phương.
428. Sau khi dâng cúng, vị trưởng lão đã chỉ định đến mẹ, cha, và em trai: ‘(Phước báu) này là thuộc về các thân quyến của tôi; mong rằng các thân quyến được an vui.’
429. Khi được chỉ định thì các vải mặc đã được sanh lên ngay lập tức. Kế đó, được mặc vải đẹp, (người em trai) đã hiện thân ra cho vị trưởng lão nhìn thấy.
430. ‘Thưa ngài, các vải vóc ở lãnh thổ của đức vua Nanda nhiều chừng nào, thì các vải vóc và các y phục của chúng tôi còn nhiều hơn thế ấy.
431. Chúng bằng tơ lụa, sợi len, sợi lanh, và bông vải. Chúng dư thừa và có trị giá cao, hơn nữa chúng treo lủng lẳng ở không trung.
432. Chúng tôi đây chỉ khoác vào cái nào thích ý. Thưa ngài, xin ngài hãy nỗ lực như thế nào đó cho chúng tôi có thể đạt được nhà ở.’
433. Sau khi làm cái cốc bằng lá, vị trưởng lão đã dâng đến Hội Chúng bốn phương. Sau khi dâng cúng, vị trưởng lão đã chỉ định đến mẹ, cha, và em trai:
434. ‘(Phước báu) này là thuộc về các thân quyến của tôi; mong rằng các thân quyến được an vui.’ Khi được chỉ định thì các ngôi nhà đã được sanh lên ngay lập tức.
435. Những ngôi nhà mái nhọn và các chỗ ngụ là được phân chia thành từng phần cân xứng. Các ngôi nhà của chúng tôi ở nơi đây như thế nào thì ở loài người không giống như thế này.
436. Ở các cõi Trời như thế nào thì các ngôi nhà của chúng tôi ở nơi đây giống như thế ấy. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.
437. ‘Thưa ngài, xin ngài hãy nỗ lực như thế nào đó cho chúng tôi có thể đạt được nước uống.’ Sau khi làm đầy bình đựng nước, vị trưởng lão đã dâng đến Hội Chúng bốn phương.
438. Sau khi dâng cúng, vị trưởng lão đã chỉ định đến mẹ, cha, và em trai: ‘(Phước báu) này là thuộc về các thân quyến của tôi; mong rằng các thân quyến được an vui.’
439. Khi được chỉ định thì nước uống đã được sanh lên ngay lập tức. Có các hồ sen sâu thẳm, hình chữ nhật, đã khéo được hóa hiện ra.
440. Có nước trong, có những bến bãi xinh đẹp, mát mẻ, có mùi thơm, được che phủ bởi nhiều loại sen hồng và sen xanh, tràn ngập nước và phấn hoa.
441. Sau khi tắm và uống nước ở nơi ấy, họ đã xuất hiện cho vị trưởng lão thấy (nói rằng): ‘Thưa ngài, có nhiều nước uống rồi. Các bàn chân của chúng tôi bị nứt nẻ đau đớn.
442. Trong khi lang thang, chúng tôi đi khập khiễng ở nơi sỏi đá, ở gai nhọn của cỏ kusa. Thưa ngài, xin ngài hãy nỗ lực như thế nào đó cho chúng tôi có thể đạt được phương tiện di chuyển.’
443. Sau khi nhận được chiếc giày, vị trưởng lão đã dâng đến Hội Chúng bốn phương. Sau khi dâng cúng, vị trưởng lão đã chỉ định đến mẹ, cha, và em trai:
444. ‘(Phước báu) này là thuộc về các thân quyến của tôi; mong rằng các thân quyến được an vui.’ Khi được chỉ định thì ngay lập tức các ngạ quỷ đã đi đến bằng cỗ xe.
445. ‘Thưa ngài đại đức, chúng tôi đã được thương xót với vật thực, với y phục, với ngôi nhà, với sự bố thí nước uống, với sự bố thí phương tiện di chuyển, và cả hai. Thưa ngài, chúng tôi đi đến để đảnh lễ bậc hiền trí, đấng bi mẫn ở thế gian.’
Chuyện Ngạ Quỷ ở Núi Sānuvāsī là thứ nhì.
446. “Hỡi nàng tiên có đại oai lực, sau khi bước lên cung điện có cây cột bằng ngọc bích, đáng yêu, rực rỡ, được tô điểm nhiều màu sắc, nàng ngụ ở nơi ấy, tựa như mặt trăng ngày rằm ở quỹ đạo của nó.
447. Thêm nữa, nàng có màu da tương tự như vàng, có vóc dáng rạng rỡ đáng nhìn vô cùng. Nàng một mình ngồi xuống ở chiếc ghế dài hạng nhất vô song, và nàng không có chồng.
448. Và ở xung quanh nàng có các hồ sen này với vô số bông hoa, với nhiều sen trắng, được phủ lên toàn bộ bằng bụi phấn vàng; ở nơi ấy bùn và lầy không tìm thấy.
449. Và các con chim thiên nga này, đáng nhìn, làm thích ý, bơi lội loanh quanh ở trong nước vào mọi lúc, sau khi tụ họp lại tất cả kêu vang một cách ngọt ngào, với âm giọng đầy đặn tựa như tiếng vang của những chiếc trống.
450. Này cô nàng có danh tiếng, trong lúc đang tỏa sáng rực rỡ nhờ vào danh tiếng, nàng nằm dài nghỉ ngơi ở trong con thuyền. Hỡi cô nàng có lông mi rậm, cười đùa, có lời nói yêu dấu, có sự xinh đẹp ở mọi phần thân thể, nàng vô cùng chói sáng.
451. Thiên cung này không bụi bặm, tọa lạc ở chỗ bằng phẳng, có vườn hoa, có sự tăng trưởng vui thú và hoan lạc. Hỡi cô nàng có dáng vóc tuyệt vời, ta muốn cùng nàng vui sướng ở nơi đây, tại vườn hoa Nandana.”
452. “Chàng hãy tạo nghiệp đưa đến cảm thọ ở nơi này, và tâm của chàng hãy tập trung ở nơi này, sau khi đã tạo nghiệp đưa đến cảm thọ ở nơi này, như vậy chàng sẽ đạt được (thiếp) người có dục lạc theo như ước muốn.”
453. “Tốt lắm!” Người ấy sau khi hứa hẹn với nàng ấy, đã tạo nghiệp đưa đến cảm thọ ở nơi ấy, sau khi đã tạo nghiệp đưa đến cảm thọ ở nơi ấy, người thanh niên ấy đã được sanh lên cộng trú với nàng ấy.
Chuyện Ngạ Quỷ ở Hồ Rathakāra là thứ ba.
Tụng phẩm thứ nhì.
454. “Một người ăn các vỏ trấu của hạt lúa sāli, thêm một người khác nữa, và người đàn bà này ăn thịt và máu của mình, còn ngươi ăn phân dơ bẩn, ghê tởm; đây là quả thành tựu của việc gì?”
455. “Người này trước đây đã hãm hại mẹ, còn người này lại là thương buôn gian xảo, người này sau khi ăn (vụng) các miếng thịt đã lừa gạt bằng lời nói dối.
456. Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là nữ gia chủ, có quyền cai quản toàn bộ gia đình. Trong khi có của cải, tôi đã cất giấu và chẳng bố thí bất cứ vật gì trong số đó.
457. Tôi đã che đậy bằng cách nói dối rằng: ‘Không có vật ấy trong nhà của tôi. Nếu vật ấy có và tôi thu giấu nó, thì phân hãy là thức ăn của tôi.’
458. Do quả thành tựu của cả hai, của nghiệp ấy và của việc nói dối, bữa ăn gồm gạo sāli có mùi thơm biến đổi thành phân cho tôi.
459. Các nghiệp không phải là không kết quả, bởi vì nghiệp không bị tiêu hoại; tôi ăn và uống phân có mùi thối tha đã sanh dòi.”
Chuyện Ngạ Quỷ Vỏ Trấu là thứ tư.
460. Trí tuệ của đấng Thiện Thệ có bản chất kỳ diệu, bậc Đạo Sư đã giải thích theo từng cá nhân: Mặc dầu có phước báu dồi dào, nhiều người trở thành (hạ liệt), mặc dầu có phước báu ít ỏi, nhiều ngưởi trở thành (cao quý).
461. Đứa bé trai này, bị quăng bỏ ở bãi tha ma, đã được nuôi dưỡng ban đêm nhờ vào dịch chất từ ngón tay. Dạ-xoa và quỷ sứ hay là các loài bò sát không thể quấy nhiễu đứa bé trai là người có phước báu đã tạo.
462. Ngay cả các con chó còn liếm hai bàn chân của đứa bé này, các con quạ, các con chó rừng di chuyển xung quanh, các bầy chim mang đi chất nhơ của bào thai, còn các con quạ lấy đi ghèn ở mắt.
463. Đối với đứa bé này, đã không có bất cứ người nào sắp xếp việc bảo vệ, việc thuốc men, hay là việc xông khói mù-tạt, cũng đã không xác định sự liên hệ với các vì tinh tú, cũng đã không rải rắc tất cả các loại hạt.
464. (Đứa bé đã) bị rơi vào trường hợp cực kỳ khó khăn như thế ấy, bị đem đi vào ban đêm, bị quăng bỏ ở bãi tha ma, trong khi run rẩy tựa như miếng bơ tươi, phần còn lại của mạng sống là điều hoài nghi.
465. Bậc được tôn vinh bởi chư Thiên và nhân loại đã nhìn thấy đứa bé ấy. Và sau khi nhìn thấy, đấng có tuệ bao la đã tiên tri về đứa bé rằng: ‘Nhờ vào tài sản, đứa bé trai này sẽ là người thuộc gia tộc tột đỉnh của thành phố này.”
466. “Đứa bé có sự hành trì gì, thêm nữa có hạnh kiểm cao đẹp gì, quả thành tựu này là của việc thực hành gì mà sau khi nhận chịu sự bất hạnh như thế này lại sẽ được hưởng thụ sự thành công như thế ấy?”
467. “Mọi người đã thực hiện việc cúng dường cao sang đến Hội Chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu, tâm của đứa bé này đã có quan điểm khác về sự việc ấy, nó đã nói lời thô lỗ, không lễ độ.
468. Sau khi đã xua đi tư tưởng ấy, sau khi đã đạt lại được niềm vui và sự tin tưởng, sau đó đứa bé ấy đã phục vụ cháo bảy ngày đến đức Như Lai trong khi Ngài ngự tại Jetavana.
469. Đứa bé có sự hành trì ấy, thêm nữa có hạnh kiểm cao đẹp ấy, quả thành tựu này là của việc thực hành ấy khiến sau khi nhận chịu sự bất hạnh như thế này thì sẽ hưởng thụ sự thành công như thế ấy.
470. Đứa bé ấy, sau khi tồn tại ngay ở nơi này một trăm năm, được đầy đủ với tất cả các dục, do sự tan rã của thân xác, vào kiếp sống kế tiếp (sẽ) đi đến sự cộng trú với (Thiên Chủ) Vāsava.”
Chuyện Ngạ Quỷ về Đứa Bé Trai là thứ năm.
471. “Này cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”
472. “Thưa ông, tôi là nữ ngạ quỷ bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
473. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà nàng đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”
474. “Ở những bến tắm không bị ngăn cấm, tôi đã góp nhặt từng nửa đồng tiền māsaka. Trong khi các vật bố thí đang hiện hữu, tôi đã không tạo lập hòn đảo (nương nhờ) cho bản thân.
475. Bị khát (nước), tôi đi đến gần dòng sông thì dòng sông trở nên khô cạn. Vào những lúc nóng, tôi đi đến gần bóng râm thì bóng râm trở thành ánh nắng mặt trời.
476. Và làn gió, với dáng vẻ của ngọn lửa, thổi đến đốt nóng tôi. Và thưa ngài, tôi xứng đáng với việc này và việc khác tồi tệ hơn thế ấy.
477. Sau khi đi đến thành phố Hatthinī, ngài nên nói với mẹ của tôi rằng:
‘Tôi đã nhìn thấy con gái của bà; cô ta bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma.
478. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây cô ta đã đi đến thế giới ngạ quỷ.’ Và ở nơi đây có vật đã được tôi cất giấu, tôi đã không nói về điều ấy.
479. Có bốn trăm ngàn ở bên dưới chiếc ghế dài. Nhờ đó, vì tôi bà ta hãy ban phát vật thí, và mong rằng bà ta có được sự sinh sống.
480. Và sau khi ban phát vật thí, mẹ tôi hãy chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu tất cả các dục.”
481. “Tốt lắm!” Sau khi thỏa thuận, vị ấy đã đi đến thành phố Hatthinī và đã nói với mẹ của cô ấy rằng: “Tôi đã nhìn thấy con gái của bà; cô ta bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma.
482. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây cô ta đã đi đến thế giới ngạ quỷ. Tại nơi đó, cô ấy đã thúc giục tôi: - Ngài nên nói với mẹ của tôi rằng:
483. ‘Tôi đã nhìn thấy con gái của bà; cô ta bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây cô ta đã đi đến thế giới ngạ quỷ.’
484. Và ở nơi đây có vật đã được tôi cất giấu, và tôi đã không nói về điều ấy. Có bốn trăm ngàn ở bên dưới chiếc ghế dài. Nhờ đó, vì tôi bà ta hãy ban phát vật thí, và mong rằng bà ta có được sự sinh sống.
485. Và sau khi ban phát vật thí, mẹ tôi hãy chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu tất cả các dục.”
486. Chính vì thế, bà ấy đã ban phát vật thí, và sau khi ban phát đã chỉ định sự cúng dường là dành cho cô ấy. Và nữ ngạ quỷ đã được hạnh phúc, có thân xác, có dáng vẻ dễ mến.
Chuyện Ngạ Quỷ Seriṇī là thứ sáu.
487. “Đang tuổi thanh xuân, được tôn vinh bởi các người nam người nữ, ngươi chói sáng với các loại dục lạc vào ban đêm, và chịu đựng khổ hình vào ban ngày; ngươi đã làm việc gì trong kiếp sống trước dây?”
488. “Ở thành Rājagaha đáng yêu, nơi Giribbaja xinh xắn, tôi trước đây đã là người thợ săn tàn bạo, có bàn tay vấy máu.
489. Có tâm ý độc ác đối với các loài sinh vật không gây hại, đối với các chúng sanh thông thường, khi ấy tôi đã đi đó đây, vô cùng tàn bạo, thích thú trong việc hãm hại kẻ khác, không tự kiềm chế.
490. Tôi đây có người bạn tâm huyết là nam cư sĩ có đức tin. Trong khi thương xót đến tôi, vị ấy cũng đã cản ngăn lần này đến lần khác:
491. ‘Này bạn thân, bạn chớ tạo nghiệp ác, chớ đi đến cảnh giới khổ đau. Nếu bạn mong muốn sự an lạc sau khi chết, bạn hãy lánh xa việc giết hại mạng sống, việc không tự kiềm chế.’
492. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ấy, người có lòng mong mỏi hạnh phúc, có lòng thương tưởng đến điều lợi ích (cho tôi), (tuy nhiên) là người thích thú việc ác trong thời gian dài, không có sự sáng suốt, tôi đã không làm theo toàn bộ lời khuyên bảo.
493. Vị ấy, có trí thông minh bao la, vì lòng thương xót đã quy định thêm cho tôi về sự tự kiềm chế: ‘Nếu bạn giết hại các sanh mạng vào ban ngày, thì bạn hãy có sự tự kiềm chế vào ban đêm.’
494. Tôi đây, sau khi giết chết các mạng sống vào ban ngày, đã lánh xa, đã tự kiềm chế vào ban đêm. (Giờ đây) vào ban đêm tôi hoàn toàn hài lòng, vào ban ngày tôi đi đến khổ cảnh, bị nhai nghiến.
495. Do nghiệp thiện ấy, tôi hưởng thụ (dục lạc) không thuộc loài người vào ban đêm, vào ban ngày các con chó vừa mới bị đánh đập chạy đến gần (tôi) để nhai nghiến khắp mọi chỗ.
496. Và những vị nào thường xuyên đeo đuổi, luôn luôn gắn bó vào lời dạy của đấng Thiện Thệ, tôi nghĩ rằng những người ấy chứng đắc trọn vẹn chính trạng thái Bất Tử, vị thế không còn tạo tác.”
Chuyện Ngạ Quỷ Người Thợ Săn Thú là thứ bảy.
497. “Ở ngôi nhà mái nhọn và ở tòa lâu đài, ở chiếc ghế dài được trải tấm thảm len lông dài, ngươi vui thích ở phần trình tấu khéo léo với năm loại nhạc cụ.
498. Sau đó, vào lúc cuối đêm cho đến lúc mọc lên của mặt trời, ngươi bị thảy ra ở nơi nghĩa địa, trải nghiệm nhiều sự khổ đau.
499. Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà ngươi lại trải nghiệm sự khổ đau này?”
500. “Ở thành Rājagaha đáng yêu, nơi Giribbaja xinh xắn, tôi trước đây đã là người thợ săn thú rừng, và tôi đã là người thợ săn không tự kiềm chế.
501. Tôi đây có người bạn tâm huyết là nam cư sĩ có đức tin. Vị tỳ khưu thường xuyên lui tới nhà của bạn ấy đã là Thinh Văn của đức Gotama.
502. Trong khi thương xót đến tôi, bạn ấy cũng đã cản ngăn lần này đến lần khác: ‘Này bạn thân, bạn chớ tạo nghiệp ác, chớ đi đến cảnh giới khổ đau.
503. Nếu bạn mong muốn sự an lạc sau khi chết, bạn hãy lánh xa việc giết hại mạng sống, việc không tự kiềm chế.’ Tôi đã lắng nghe lời nói của bạn ấy, người có lòng mong mỏi hạnh phúc, có lòng thương tưởng đến điều lợi ích (cho tôi).
504. (Tuy nhiên) là người thích thú việc ác trong thời gian dài, không có sự sáng suốt, tôi đã không làm theo toàn bộ lời khuyên bảo. Vị (tỳ khưu) ấy, có trí thông minh bao la, vì lòng thương xót đã còn quy định thêm cho tôi về sự tự kiềm chế:
505. ‘Nếu đạo hữu giết hại các sanh mạng vào ban ngày, thì đạo hữu hãy có sự tự kiềm chế vào ban đêm.’ Tôi đây, sau khi giết chết các mạng sống vào ban ngày, đã lánh xa, đã tự kiềm chế vào ban đêm.
506. (Giờ đây) vào ban đêm tôi hoàn toàn hài lòng, vào ban ngày tôi đi đến khổ cảnh, bị nhai nghiến. Do nghiệp thiện ấy, tôi hưởng thụ (dục lạc) không thuộc loài người vào ban đêm, vào ban ngày các con chó vừa mới bị đánh đập chạy đến gần (tôi) để nhai nghiến khắp mọi chỗ.
507. Và những vị nào thường xuyên đeo đuổi, luôn luôn gắn bó vào lời dạy của đấng Thiện Thệ, tôi nghĩ rằng những người ấy chứng đắc trọn vẹn chính trạng thái Bất Tử, vị thế không bị tạo tác.”
Chuyện Ngạ Quỷ Người Thợ Săn Thú thứ nhì là thứ tám.
508. “Ngươi có tràng hoa, có đội mão, có vòng xuyến, các phần thân thể của ngươi có chất bôi thơm là trầm hương, ngươi có sắc diện tươi tỉnh, ngươi chói sáng tựa như màu sắc của mặt trời.
509. Các tùy tùng nam của ngươi thuộc tập thể không phải nhân loại, các hầu cận nữ của ngươi là mười ngàn thiếu nữ.
510. Các cô ấy có mang các vòng xuyến bằng vàng, được điểm trang với vòng hoa đội đầu bằng vàng. Ngươi có đại oai lực, có dáng vóc khiến nổi da gà, ngươi tự mình rứt ra rồi ngấu nghiến các miếng thịt lưng của mình.
511. Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà ngươi lại tự mình rứt ra rồi ngấu nghiến các miếng thịt lưng của mình?”
512. “Trong cuộc sống ở thế gian, tôi đã cư xử bằng sự đâm thọc và lời nói dối, bằng sự gian trá và lừa gạt đem lại điều không lợi ích cho bản thân.
513. Tại nơi ấy, sau khi đi đến tập thể vào thời điểm (xác định) sự thật đã được thiết lập, tôi đã không đếm xỉa đến phương thức có sự lợi ích, tôi đã hành xử theo điều sai trái.
514. Như thế, kẻ nào là người nói xấu sau lưng, kẻ ấy ngấu nghiến bản thân, giống như tôi hôm nay ngấu nghiến các miếng thịt lưng của mình.
515. Thưa ngài Nārada, việc này đây đã được ngài đích thân nhìn thấy. Những người có lòng thương xót, tốt lành có thể nói rằng: ‘Chớ nói đâm thọc và chớ nói lời dối trá, đúng vậy ngươi chớ là kẻ nói xấu sau lưng.’”
Chuyện Ngạ Quỷ có sự Quyết Đoán Sái Quấy là thứ chín.
516. “Ngươi đứng ở không trung, có mùi hôi, toát ra mùi thối tha, và những con dòi rúc rỉa cái miệng có mùi hôi thối của ngươi; ngươi đã tạo nghiệp gì trước đây?
517. Sau đó, chúng cầm lấy cây dao cắt xẻo lần này đến lần khác. Chúng rưới khắp (thân ngươi) với chất kiềm rồi cắt xẻo lần này đến lần khác.
518. Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà ngươi lại trải nghiệm sự khổ đau này?”
519. “Thưa ngài, ở thành Rājagaha đáng yêu, nơi Giribbaja xinh xắn, tôi đã là chủ nhân của tài sản và lúa gạo vô cùng dồi dào.
520. Người vợ này của tôi đây, con gái và con dâu của tôi, trong khi các cô ấy đang mang tràng hoa, luôn cả hoa sen xanh, và dầu thoa đắt giá đến ngôi bảo tháp, tôi đã ngăn cản; việc xấu xa ấy đã do tôi gây ra.
521. Tám mươi sáu ngàn người chúng tôi có cảm thọ (khổ) riêng biệt, sau khi chê bai việc cúng dường đến ngôi bảo tháp, chúng tôi bị nung nấu dữ dội ở địa ngục.
522. Và trong khi lễ hội của bậc A-la-hán đang được cử hành, những kẻ nào công bố điều bất lợi đối với việc cúng dường ngôi bảo tháp, quý vị hãy tách ly những kẻ ấy khỏi nơi đó.
523. Và quý vị hãy nhìn xem các cô nàng đang đi đến, có mang tràng hoa, đã được trang điểm, các cô ấy hưởng thụ quả thành tựu về tràng hoa, có sự thành công, có danh tiếng.
524. Và sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu, phi thường, khiến nổi da gà ấy, các bậc có trí tuệ thực hiện việc nghiêng mình đảnh lễ ngài, bậc đại hiền trí.
525. Chắc chắn rằng chính tôi đây, sau khi đi khỏi nơi này, sau khi đạt được sự xuất thân thuộc loài người, sẽ thực hiện việc đảnh lễ ngôi bảo tháp, không bị xao lãng, lần này đến lần khác.”
Chuyện Ngạ Quỷ Do Chê Bai Xá-Lợi là thứ mười.
Tiểu Phẩm là thứ ba.
*****
Tóm Lược Phẩm Này
Chuyện không làm (mặt) nước bị vỡ ra, vị Koṇḍañña, ở hồ Rathakāra, và với vỏ trấu, đứa bé trai, luôn cả cô kỹ nữ, hai người thợ săn, (nói xấu) sau lưng, cúng dường; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.
--ooOoo--
526. Xứ Vajjī có thành phố tên là Vesālī. (Đức vua) Ambasakkhara dòng dõi Licchavi đã ngụ tại nơi ấy. Sau khi nhìn thấy ngạ quỷ ở bên ngoài thành phố, đức vua Ambasakkhara, là người muốn biết lý do, ngay tại nơi ấy đã hỏi ngạ quỷ ấy rằng:
527. “Không có giường nằm ghế ngồi dành cho gã này, không có việc đi tới hay đi lui, việc được ăn, được uống, được nhai, vải vóc, của cải, người hầu gái, (các) điều ấy cũng không có cho gã này.
528. Những người nào là bà con, thân hữu đã nhìn thấy, đã nghe, đã là những người có lòng thương tưởng đến gã ấy trước đây, những người ấy giờ đây cũng không thể nhìn thấy gã ấy, bởi vì tình trạng đã bị cách ly với họ.
529. Người có tình trạng sa sút không có bạn bè; bạn bè từ bỏ sau khi biết được sự thiếu thốn (của người ấy). Và họ vây quanh sau khi nhìn thấy sự lợi ích; người có tình trạng khá giả có nhiều bạn bè.
530. Với tình trạng bị tiêu hoại tất cả các của cải, bị khốn khổ, bị lấm lem, có thân thể hoàn toàn bị gãy đổ, tựa như giọt sương đang đeo bám (vào chiếc lá), sự chấm dứt mạng sống là trong nay mai.
531. Này Dạ-xoa, vậy với tư cách gì mà ngươi nói với kẻ đã đi đến sự khốn khổ tột cùng như thế này, đã bị cắm lên ở cọc nhọn bằng gỗ nimba rằng: ‘Này cháu yêu, cháu hãy sống. Sống đương nhiên là tốt hơn’?”
532. “Này đức vua, gã ấy đã có cùng huyết thống với tôi; tôi nhớ lại vào kiếp sống trước đây. Và sau khi nhìn thấy, tôi đã có lòng thương xót rằng: ‘Mong sao kẻ có tính chất xấu xa này chớ rơi vào địa ngục.’
533. Này vị Licchavi, người nam ấy, kẻ gây nên hành động đã được thực hiện một cách xấu xa, bị chết từ nơi này, (sẽ) bị sanh vào địa ngục đầy dẫy chúng sanh, có hình thức ghê rợn, có sức nóng khủng khiếp, dữ dội, tạo ra sự sợ hãi.
534. Chính cái cọc nhọn này còn tốt hơn địa ngục ấy nhiều lần về tính chất, ‘Mong sao kẻ này chớ rơi vào địa ngục có sự khổ đau cùng tột, dữ dội, gây nên nỗi sợ hãi, có sự tàn nhẫn cùng tột.’
535. Và sau khi nghe lời nói này của tôi, kẻ ấy có thể bị đưa đến khổ đau mà lìa bỏ sanh mạng; vì thế tôi không nói (lời nói này) trước mặt (kẻ ấy), chớ để sự chấm dứt mạng sống (của kẻ này) là do tôi gây nên.”
536. “Sự việc ấy của người đàn ông đã được biết, tuy nhiên chúng tôi muốn hỏi ngươi việc khác. Nếu ngươi tạo cho chúng tôi cơ hội, trẫm sẽ hỏi điều ấy, và không nên nổi sân với chúng tôi.”
537. “Đương nhiên, vào lúc ấy tôi đã có lời thỏa thuận. Không có việc chỉ bày cho người không được vừa lòng. Xin bệ hạ hãy xem tôi là người có lời nói đáng tin dầu là nghịch ý. Bệ hạ hãy hỏi tôi điều bệ hạ muốn, (tôi sẽ trả lời) tùy theo khả năng.”
538. “Bất cứ việc gì trẫm sẽ nhìn thấy tận mắt, trẫm có thể tin tưởng tất cả điều ấy. Nhưng nếu sau khi nhìn thấy điều ấy mà trẫm vẫn không thể tin tưởng, này Dạ-xoa, ngươi có thể thực hiện việc quở trách đối với trẫm.”
539. “Mong rằng sự thỏa thuận ấy của bệ hạ đối với tôi là chân thật. Là người có mục đích tìm hiểu và không có tâm địa xấu xa, xin bệ hạ hãy lắng nghe và tiếp nhận sự việc với niềm tin. Sự việc nào mà bệ hạ đã được nghe và thậm chí còn chưa được nghe, tôi sẽ chỉ bày tất cả theo như sự nhận biết.”
540. “Bằng con ngựa màu trắng đã được trang điểm, ngươi đi đến trước mặt kẻ bị cắm vào cọc nhọn. Phương tiện di chuyển này là tuyệt vời, duyên dáng; quả thành tựu này là của nghiệp nào?”
541. “Tại Vesālī, ở giữa thành phố ấy, nơi con đường lầy lội đã có một hố trũng. Với tâm tận tình, tôi đã cầm lấy một cái xương đầu bò màu trắng đặt xuống hố trũng.
542. Sau khi đã đặt các bàn chân ở nơi ấy, chúng tôi và những người khác đã vượt qua. Phương tiện di chuyển này là tuyệt vời, duyên dáng; quả thành tựu này là của chính nghiệp ấy.”
543. “Màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương, và mùi hương của ngươi tỏa ra khắp các phương. Ngươi đã đạt được thần thông của Dạ-xoa, có đại oai lực, và ngươi bị lõa lồ; quả thành tựu này là của việc gì?”
544. “Không có giận dữ, và luôn luôn có tâm tận tình, tôi chuyện trò với mọi người bằng những lời nói mềm mỏng; quả thành tựu này là của chính nghiệp ấy: màu da thuộc về cõi Trời của tôi thường xuyên chiếu sáng.
545. Với tâm tận tình, tôi nhìn nhận, tán dương danh vọng và tiếng tốt của những người đã đứng vững trong Giáo Pháp; quả thành tựu này là của chính nghiệp ấy: mùi hương thuộc về cõi Trời của tôi thường xuyên tỏa ra.
546. Là người có mục đích đùa giỡn và không có tâm địa xấu xa, tôi đã lấy y phục của những người bạn đang tắm ở bến tắm và giấu ở nơi khô ráo; vì điều ấy tôi bị lõa lồ và sự sinh hoạt bị khốn khó.”
547. “Người nào thực hiện việc xấu xa trong khi vui đùa, người ta nói rằng quả thành tựu của nghiệp ấy là như thế này. Trái lại, người nào làm trong lúc không phải vui đùa, thì người ta nói gì về quả thành tựu của nghiệp ấy?”
548. “Những người nào có sự suy nghĩ và tâm ý xấu xa, bị ô nhiễm do thân và do khẩu, do sự tan rã của thân xác, vào kiếp sống kế tiếp những người ấy chắc chắn (sẽ) đi đến địa ngục.
549. Trái lại, những người khác mong mỏi cảnh giới an vui, ưa thích việc bố thí, có bản tính nhân hậu, do sự tan rã của thân xác, vào kiếp sống kế tiếp những người ấy chắc chắn (sẽ) đi đến chốn an vui.”
550. “Làm thế nào trẫm có thể biết chắc chắn về điều ấy rằng quả thành tựu này là của việc tốt và việc xấu? Hoặc là, sau khi nhìn thấy trẫm có thể tin được không? Hoặc nữa, người nào có thể khiến cho trẫm tin được điều ấy?”
551. “Sau khi nhìn thấy hoặc sau khi lắng nghe, bệ hạ hãy tin tưởng rằng quả thành tựu này là của việc tốt và việc xấu. Khi cả hai tốt và xấu không hiện hữu, có thể nào chúng sanh lại đi đến nhàn cảnh hay đọa vào khổ cảnh?
552. Ở đây, nếu loài người không làm các nghiệp tốt và xấu ở thế giới nhân loại, chúng sanh đã không đi đến nhàn cảnh hay đọa vào khổ cảnh, và đã không trở nên thấp hèn hay cao sang ở thế giới nhân loại.
553. Và bởi vì loài người làm các nghiệp tốt và xấu ở thế giới nhân loại, chính vì thế chúng sanh đi đến nhàn cảnh hay đọa vào khổ cảnh, và trở nên thấp hèn hay cao sang ở thế giới nhân loại.
554. Hôm nay, người ta nói quả thành tựu của các nghiệp có hai loại: cảm thọ của lạc và của khổ. Các vị Thiên nhân ấy nhàn hạ, những kẻ ngu không nhìn thấy tính chất đi đôi (nghiệp và quả của nghiệp) bị nung nấu (khổ đau).
555. Tôi không có các nghiệp (thiện) đã được tự mình làm, thậm chí sau khi bố thí y phục, giường nằm, rồi cơm ăn nước uống cũng không có người chỉ định (việc ấy là) dành cho tôi; vì điều ấy tôi bị lõa lồ và sự sinh hoạt bị khốn khó.”
556. “Này Dạ-xoa, có thể có cách thức nào nhờ đó ngươi có thể đạt được y phục? Nếu có nguyên do thì ngươi hãy nói điều ấy cho trẫm, chúng tôi sẽ lắng nghe lời nói về nguyên do đã được tin cậy.”
557. “Ở nơi đây, có vị tỳ khưu tên Kappinaka, có thiền chứng, có thiện giới, là vị A-la-hán, đã được giải thoát, có giác quan đã được canh phòng, có giới bổn Pātimokkha đã được thu thúc, có trạng thái mát mẻ, đã đạt được chánh kiến tối thượng.
558. Vị ấy nhã nhặn, biết lắng nghe, dễ tính, có khuôn mặt nhân hậu, có sự truyền thừa tốt đẹp, và có lời nói khôn khẻo, là thửa ruộng phước, có sự an trú tâm bình lặng, xứng đáng được cúng dường bởi chư Thiên và nhân loại.
559. An tịnh, không tầm cầu sai trái, không khổ nhọc, không luyến ái, đã được giải thoát, không còn mũi tên (tham ái), không chấp ngã, không khúc mắc, không còn mầm mống tái sanh, đã cạn kiệt tất cả chướng ngại, đã đạt đến ba Minh, có sự sáng suốt.
560. Do ít được biết đến, thậm chí sau khi nhìn thấy cũng không dễ biết được, ở xứ Vajji người ta gọi vị ấy là ‘bậc hiền trí,’ các hàng Dạ-xoa biết vị ấy là không còn dục vọng, có bản chất tốt đẹp, đang du hành ở thế gian.
561. Nếu quý ngài có thể dâng cúng đến vị ấy một hoặc hai xấp vải đôi rồi chỉ định là dành cho tôi, và nếu chúng có thể được thọ nhận thì quý ngài sẽ nhìn thấy tôi có y phục đã được mặc vào.”
562. “Vị Sa-môn đang ngụ ở khu vực nào? Chúng tôi có thể đi đến và gặp vị ấy bây giờ. Hôm nay, người nào đây có thể xua đi sự nghi ngờ, sự phân vân, và các luận điểm trườn uốn của tà kiến cho trẫm?”
563. “Vị ấy đã ngồi xuống ở Kapinaccanā, được vây quanh bởi nhiều Thiên nhân; vị có tên gọi chân thật đang thuyết bài giảng về Giáo Pháp, là vị không xao lãng trong lời giáo huấn của bậc dòng Sakya.”
564. “Giờ đây, trẫm sẽ đi và sẽ làm như thế. Trẫm sẽ choàng lên vị Samôn với xấp vải đôi, chúng sẽ được thọ nhận, và chúng tôi có thể nhìn thấy ngươi có y phục đã được mặc vào.”
565. “Chớ đi đến gần vị xuất gia không đúng thời điểm. Này vị Licchavi, tốt lắm, điều ấy không phải là thói quen của bệ hạ. Và sau đó, vào lúc đúng thời, bệ hạ hãy đi đến và nhìn thấy, ngay tại nơi ấy, vị ngồi, cô độc.”
566. Sau khi nói rằng: “Hãy là như vậy,” vị Licchavi, được tháp tùng bởi đám nô lệ, đã đi đến nơi ấy. Sau khi đi đến thành phố ấy, đức vua đã đi đến chỗ ở, nơi trú ngụ của mình.
567. Và sau đó, vào buổi sáng, sau khi đã làm các phận sự của người tại gia, đức vua đã tắm và uống nước. Sau khi đạt được thời điểm, vị Licchavi đã chọn lựa tám xấp vải đôi từ trong rương rồi bảo đám nô lệ cầm lấy.
568. Sau khi đi đến khu vực ấy, đức vua đã nhìn thấy vị Sa-môn có tâm an tịnh ấy, đang trở về từ nơi khất thực, đã về đến nơi, đã ngồi xuống ở gốc cây, có trạng thái mát mẻ.
569. Sau khi đi đến gần, đức vua đã nói điều ấy với vị ấy, đã hỏi về trạng thái thiểu bệnh và sự an trú thoải mái rằng: “Thưa ngài đại đức, trẫm thuộc dòng dõi Licchavi ở Vesālī, người ta biết trẫm là Ambasakkhara dòng dõi Licchavi.
570. Thưa ngài, xin ngài hãy thọ nhận tám xấp vải đôi xinh đẹp này của trẫm; trẫm xin dâng đến ngài. Chính vì mục đích ấy mà trẫm đã đi đến nơi đây, như thế trẫm có thể được hoan hỷ.”
571. “Các vị Sa-môn và Bà-la-môn tránh né nơi trú ngụ của bệ hạ từ đàng xa. Và ở nơi trú ngụ của bệ hạ, các bình bát bị đập vỡ và các y hai lớp cũng bị xé rách.
572. Rồi những kẻ khác làm cho các vị Sa-môn té ngã dập đầu bởi những bàn chân như lưỡi búa. Các vị xuất gia, các vị Sa-môn gánh lấy sự hãm hại như thế ấy đã do bệ hạ làm.
573. Bệ hạ không bố thí thậm chí dầu đốt đèn cùng với cọng cỏ, cũng không chỉ đường cho người lạc lối, bệ hạ đích thân giật lấy cây gậy của người mù, người như thế ấy là keo kiệt, không thu thúc. Giờ vì lý do gì, sau khi nhìn thấy chính điều gì mà bệ hạ lại thực hiện việc san sẻ với chúng tôi?”
574. “Thưa ngài, trẫm hiểu được điều ngài nói; trẫm đã hãm hại các vị Samôn và Bà-la-môn. Là người có mục đích đùa giỡn và không có tâm địa xấu xa, thưa ngài, điều này cũng chính là việc đã làm sai trái của trẫm.
575. Sau khi gây nên việc xấu xa do đùa giỡn, gã Dạ-xoa cảm nhận khổ đau, có sự thọ hưởng không được đầy đủ. Là người trẻ tuổi, thanh niên, có số phần của tình trạng lõa lồ, còn có khổ đau nào hơn thế cho gã ấy?
576. Thưa ngài, sau khi nhìn thấy điều ấy trẫm đã có sự chấn động. Do duyên ấy, trẫm dâng cúng vật thí này. Thưa ngài, xin ngài hãy thọ nhận tám xấp vải đôi; mong sao các vật cúng dường này đến với Dạ-xoa.”
577. “Bởi vì sự bố thí đương nhiên được ca tụng theo nhiều cách, mong sao là pháp không lui sụt đối với bệ hạ trong khi bố thí. Ta thọ nhận tám xấp vải đôi của bệ hạ; mong sao các vật cúng dường này đến với Dạ-xoa.”
578. Và sau đó, vị Licchavi đã rưới nước (ở bàn tay) rồi đã dâng cúng tám xấp vải đôi đến vị trưởng lão (nói rằng): “Cầu mong các vật này được thọ nhận!” (Và vị trưởng lão đã bảo rằng) “Quý vị hãy nhìn xem gã Dạ-xoa có y phục đã được mặc vào.”
579. Đức vua đã nhìn thấy Dạ-xoa ấy, đã được thoa tinh chất của trầm hương, đã cỡi lên con ngựa thuần chủng, có màu da quý phái, đã được trang điểm, có y phục được mặc vào khéo léo, được (tùy tùng) vây quanh, đã đạt đến đại thần lực của Dạ-xoa.
580. Sau khi nhìn thấy Dạ-xoa ấy, đức vua được hoan hỷ, phấn khởi, có tâm tư phấn chấn, có dáng vẻ rạng rỡ sau khi đã nhìn thấy nghiệp và quả thành tựu lớn lao được thấy rõ ràng, sau khi đã chứng thực bằng mắt.
581. Sau khi đi đến gần, đức vua đã nói điều ấy với Dạ-xoa ấy rằng: “Trẫm sẽ dâng cúng vật thí đến các Sa-môn và Bà-la-môn. Và thậm chí đối với trẫm không có vật gì là không thể bố thí. Và này Dạ-xoa, ngươi có nhiều sự hỗ trợ đối với trẫm.”
582. “Này vị Licchavi, bệ hạ đã dâng cúng các vật thí, có một phần là dành cho tôi, điều ấy không phải vô ích. Tôi đây sẽ thực hiện việc quen biết với bệ hạ, một hạng phi nhân cùng với một người nhân loại.”
583. “Ngươi là số phận, là thân quyến, là sự nâng đỡ, và là người bạn của trẫm, rồi là vị Thiên nhân. Trẫm chắp tay lại khẩn cầu: ‘Này Dạ-xoa, trẫm muốn nhìn thấy ngươi thêm lần nữa.’”
584. “Nếu bệ hạ không còn niềm tin, có dáng vẻ keo kiệt, có tâm bị lầm lạc, do chính điều ấy bệ hạ sẽ không đạt được việc nhìn thấy tôi nữa, và tôi sau khi nhìn thấy bệ hạ, cũng sẽ không trò chuyện.
585. Nếu bệ hạ sẽ có sự tôn kính Giáo Pháp, ưa thích việc bố thí, có bản tính nhân hậu, là nguồn cung ứng (vật chất) đối với các Sa-môn và Bà-lamôn, như vậy bệ hạ sẽ đạt được việc nhìn thấy tôi.
586. Và này bậc đáng kính, sau khi nhìn thấy bệ hạ, tôi sẽ trò chuyện. Và bệ hạ hãy nhanh chóng phóng thích người này khỏi cọc nhọn. Bắt đầu từ người này, chúng ta đã thực hiện việc quen biết, chúng ta hãy nghĩ là bởi lý do của người bị cắm vào cọc nhọn.
587. Chúng ta đây đã thực hiện việc quen biết lẫn nhau. Và người bị cắm vào cọc nhọn này nên được phóng thích nhanh chóng. Trong khi thực hành các pháp một cách nghiêm chỉnh, người ấy có thể thoát khỏi địa ngục ấy.
588. Nghiệp có thể được cảm thọ ở nơi khác. Bệ hạ hãy đi đến gặp vị Kappinaka, sau khi san sẻ (vật thực) với chính vị ấy vào lúc đúng thời, sau khi đã ngồi xuống gần bên, đối diện, bệ hạ hãy đích thân hỏi.
589. Vị ấy sẽ chỉ bày cho bệ hạ về ý nghĩa ấy. Sau khi đi đến gần chính vị tỳ khưu ấy, (với tư cách) là người có mục đích tìm hiểu và không có tâm địa xấu xa, bệ hạ hãy hỏi. Vị ấy sẽ chỉ bày tất cả đúng theo sự nhận biết về Giáo Pháp điều mà bệ hạ đã được nghe và thậm chí còn chưa được nghe.”
590. Tại nơi ấy, sau khi đã chuyện trò một cách kín đáo, sau khi đã thực hiện việc quen biết với hàng phi nhân, đức vua đã ra đi đến nơi có mặt các vi Licchavi, rồi đã nói với tập thể đang ngồi tụ tập rằng:
591. “Này các khanh, hãy lắng nghe một lời nói của trẫm. Nếu trẫm có thể chọn điều ước muốn, trẫm sẽ chọn lấy điều lợi ích. Người đàn ông có hành động tàn bạo đã bị cắm ở cọc nhọn, đã bị áp dụng hành phạt, có vóc dáng của kẻ thuần phục.
592. Cho đến bây giờ là hai mươi đêm kể từ lúc bị cắm (ở cọc nhọn) gã chẳng những không sống mà cũng chẳng bị chết. Giờ đây, trẫm sẽ phóng thích gã ấy; mong rằng tập thể chấp nhận theo suy nghĩ như vậy.”
593. “Bệ hạ hãy nhanh chóng phóng thích gã này và gã khác. Ai có thể nói bệ hạ trong khi bệ hạ làm như thế ấy. Bệ hạ nhận thức như thế nào thì bệ hạ hãy thực hiện như thế ấy; tập thể thuận theo suy nghĩ như vậy.”
594. Sau khi đi đến khu vực ấy, đức vua đã vô cùng nhanh chóng phóng thích người bị cắm ở cọc nhọn và đã nói với gã ấy rằng: “Này anh bạn, chớ sợ hãi,” rồi đã bàn giao cho các vị y sĩ.
595. Và sau khi đã đi đến gặp vị Kappinaka, sau khi đã san sẻ (vật thực) đồng đều với vị ấy vào lúc đúng thời, sau khi đích thân ngồi xuống gần bên đối diện, vị Licchavi là người muốn biết lý do, ngay tại nơi ấy, đã hỏi vị ấy rằng:
596. “Người đàn ông có hành động tàn bạo đã bị cắm ở cọc nhọn, đã bị áp dụng hành phạt, có vóc dáng của kẻ thuần phục. Cho đến bây giờ là hai mươi đêm kể từ lúc gã bị cắm (ở cọc nhọn) chẳng những không sống mà cũng chẳng bị chết.
597. Được tha bổng, gã ấy giờ đây đã đi với trẫm bởi vì lời nói của Dạ-xoa này. Thưa ngài, phải chăng có lý do nào đó khiến cho gã ấy có thể khỏi đi đến địa ngục?
598. Thưa ngài, nếu có nguyên do xin ngài hãy chỉ bày; chúng tôi sẽ lắng nghe lời nói về nguyên do đã được tin cậy. Phải chăng không có sự triệt tiêu các nghiệp ấy? Phải chăng có tình trạng chấm dứt ở đây mà không phải cảm thọ?”
599. “Nếu người ấy thực hành các pháp một cách nghiêm chỉnh đêm ngày không xao lãng, người ấy có thể thoát khỏi địa ngục ấy. Nghiệp có thể được cảm thọ ở nơi khác.”
600. “Vấn đề của gã đàn ông ấy đã được thấu hiểu. Thưa ngài, giờ đây xin ngài cũng hãy thương xót đến trẫm. Thưa vị có tuệ bao la, xin ngài hãy chỉ dạy, hãy giáo huấn trẫm để cho trẫm không phải đi địa ngục.”
601. “Ngay ngày hôm nay, với tâm tịnh tín bệ hạ hãy đi đến nương nhờ đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng. Tương tự y như thế, bệ hạ hãy thọ trì năm điều học không bị bể vỡ hay sứt mẻ.
602. Bệ hạ hãy lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, hãy xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, chớ có việc uống chất say và nói lời dối trá, và hãy vui thích (chỉ) với người vợ của mình. Hãy thọ trì việc thiện đưa đến sự an lạc, được gắn liền với tám chi phần cao quý thánh thiện này.
603. Với tâm ý tịnh tín, bệ hạ hãy dâng cúng y phục và vật thực, vật dụng, chỗ nằm ngồi, cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc và chỗ trú ngụ đến các vị có bản thể chính trực.
604. Bệ hạ cũng hãy làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã xa lìa luyến ái, có sự học rộng, với cơm ăn và nước uống; phước báu luôn luôn tăng trưởng.
605. Và trong khi thực hành các pháp một cách nghiêm chỉnh đêm ngày không xao lãng như thế, bệ hạ đây có thể thoát khỏi địa ngục ấy; nghiệp nếu có sẽ được cảm thọ ở nơi khác.”
606. “Ngay ngày hôm nay, với tâm tịnh tín trẫm đi đến nương nhờ đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng. Tương tự y như thế, trẫm thọ trì năm điều học không bị bể vỡ hay sứt mẻ.
607. Trẫm lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say và không nói lời dối trá, trẫm vui thích (chỉ) riêng với người vợ của mình. Trẫm thọ trì việc thiện đưa đến sự an lạc, được gắn liền với tám chi phần cao quý thánh thiện này.”
608-609. Được vui thích ở lời dạy của chư Phật, trẫm còn dâng cúng y phục và vật thực, vật dụng, chỗ nằm ngồi, cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc và chỗ trú ngụ đến các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã xa lìa luyến ái, có sự học rộng.”
610. (Đức vua) Licchavi Ambasakkhara là như thế ấy, một vị cận sự nam khác nữa của thành Vesālī, có đức tin, nhu thuận, người làm công việc hỗ trợ, và từ đó đã hộ độ hội chúng tỳ khưu một cách nghiêm chỉnh.
611. Còn người bị cắm ở cọc nhọn, sau khi hết bệnh, có sự chọn lựa, có sự an vui, đã đi đến việc xuất gia. Và nhờ vào vị tỳ khưu Kappinaka tối thượng, cả hai cũng đã chứng đạt các quả vị của Sa-môn.
612. Việc thân cận với những bậc chân nhân như thế ấy, các bậc tốt lành có sự nhận thức, thì có quả báo lớn lao: Người bị cắm ở cọc nhọn đã chạm đến quả vị cao tột (A-la-hán), còn Ambasakkhara quả vị thấp nhất (Nhập Lưu).”
Chuyện Ngạ Quỷ của Ambasakkhara là thứ nhất.
613. Chúng ta hãy lắng nghe về sự gặp gỡ của vị Dạ-xoa và các người thương buôn đã xảy ra vào lúc ấy. Câu chuyện đã khéo được trao đổi bởi người này với người kia như thế nào, xin tất cả hãy lắng nghe câu chuyện ấy.
614. Vị vua ấy tên là Pāyāsi, có danh tiếng, đã đi đến cộng trú với chư Thiên địa cầu. Ngay trong lúc đang vui thích ở Thiên cung của mình, vị phi nhân ấy đã nói với loài người rằng:
615. “Ở khu rừng hiểm trở, nơi không có loài người, ở sa mạc, thiếu nước, thiếu thức ăn, nơi vô cùng khó đi, ở giữa đầm cát, nhiều người bị mất trí vì nỗi sợ hãi sự hiểm trở.
616. Ở nơi đây, không có các trái cây, và các loại cây có rễ, không có củi lửa, lấy đâu ở đây có thức ăn, ngoại trừ nhiều bụi bặm, lắm cát, các sự thiêu đốt, các sự nóng bức, và các sự khắc nghiệt?
617. Vùng sa mạc tựa như cái chảo đã được đốt nóng, không có lợi ích, tương đương với thế giới khác (địa ngục); chỗ trú ngụ này là của những kẻ hung dữ trước đây, là vùng đất bị nguyền rủa.
618. Còn các người, vì nguyên nhân gì, trong khi đang mong mỏi điều gì, lại vội vã tập hợp rồi đi vào chính khu vực này, do lòng tham, do sự sợ hãi, hay là đã bị lầm lẫn?”
619. “Các chủ đoàn xe ở xứ sở Magadha và Aṅga sau khi cho chất lên hàng hoá với số lượng dồi dào, những người ấy đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận.
620. Vào ban ngày, do không chịu đựng được cơn khát và mãi quan tâm đến sự thương xót đối với các con vật kéo xe, tất cả chúng tôi di chuyển với tốc độ này và đến được con đường vào ban đêm, không đúng thời điểm.
621. Đã khởi hành chậm trễ, đã bị lạc đường, bị rối loạn như người mù, đã bị lạc lối trong khu rừng, ở chỗ vô cùng khó đi, ở giữa biển cát, chúng tôi đây không nhận ra phương hướng, có tâm bị hoang mang.
622. Và thưa vị Dạ-xoa, sau khi nhìn thấy việc này, việc chưa được thấy trước đây, là Thiên cung hạng nhất và ngài, trong khi đang mong mỏi về mạng sống sau này, đến lúc nhìn thấy (ngài), chúng tôi trở nên mừng rỡ, có tâm ý vui vẻ, phấn khởi.”
623. “Vì nguyên nhân của cải, quý vị đi đến những phương trời khác biệt, đến bờ bên kia của biển cả và đầm cát này, đến con đường có sự di chuyển với gậy chống và lối đi có cắm cọc, đến những con sông, thêm nữa là những con đường hiểm trở ở các ngọn núi.
624. Này quý vị, sau khi tiến vào lãnh thổ của những người khác, trong khi ngắm nhìn những con người thuộc nhiều quốc độ, điều nào đã được quý vị nghe, hoặc nhìn thấy, hãy cho chúng tôi nghe điều kỳ diệu ấy từ quý vị.”
625. “Thưa Thiên tử, điều kỳ diệu hơn thế này chúng tôi không được nghe hoặc được nhìn thấy, tất cả đều vượt trội (thế giới) loài người, sau khi nhìn thấy chúng tôi được thỏa mãn về vẻ đẹp tuyệt vời.
626. Ở không trung có những hồ sen với vô số bông hoa, với nhiều sen trắng, và những cây cối này được trổ quả thường xuyên, có những hương thơm tỏa ra cực kỳ thơm ngát.
627. Có những cây cột bằng ngọc bích vươn cao một trăm (ratana),1 có bề mặt trải dài làm bằng đá và san hô, có các viên ngọc mắt mèo và các viên hồng ngọc, còn những trụ cột này làm bằng ngọc như ý.
628. Có ngàn cây cột có năng lực không sánh bằng, phía trên chúng là Thiên cung tốt đẹp này, ở bên trong có châu báu, được kết hợp với hành lang bằng vàng, và được che phủ một cách khéo léo với những tấm lợp bằng vàng.
629. (Thiên cung) này chói sáng với vàng từ sông Jambu đã được tinh luyện. (Khu vực ấy) khéo được đánh bóng, được hiện hữu với các tòa lâu đài, các cầu thang, các sân thượng, vững chãi, dễ thương, có dáng xinh xắn, khéo được phối hợp, vô cùng cuốn hút sự nhìn ngắm, làm hài lòng.
630. Ở bên trong (Thiên cung) châu ngọc, có nhiều thức ăn thức uống, được vây quanh bởi đoàn tiên nữ, được vang vang tiếng trống con, trống lớn, và các nhạc cụ, ngài được tôn vinh với sự ngợi ca và lễ bái.
631. Ở tòa lâu đài nơi Thiên cung cao quý, làm thích ý, với sự đánh thức bởi các nhóm phụ nữ, ngài đây, không thể nghĩ bàn, có đủ mọi đức tính, vui sướng giống như đức vua Vessavaṇa ở Nalinī.
632. Ngài là Thiên nhân, hay ngài là Dạ-xoa, là Chúa của chư Thiên, hay là bản thể nhân loại? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài. Xin ngài hãy nói tên (của ngài) là gì, có phải ngài là Dạ-xoa?”
633. “Tôi chính là Dạ-xoa tên Serissaka, sống ở sa mạc, là người canh giữ đầm cát. Tôi hộ trì khu vực này, là người thực thi mệnh lệnh của đức Vua Vessavaṇa.”
634. “(Công việc này) được nhận lãnh bởi ngài một cách ngẫu nhiên, được nảy sanh do sự phát triển, tự mình tạo ra, hay được chư Thiên giao cho? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài: Bằng cách nào mà ngài đã đạt được công việc hài lòng này?”
635. “(Công việc này) không được nhận lãnh bởi tôi một cách ngẫu nhiên, không được nảy sanh do sự phát triển, không tự mình tạo ra, cũng không được chư Thiên giao cho. Công việc hài lòng này tôi đã đạt được nhờ vào những nghiệp không xấu xa, nhờ vào những phước thiện của chính mình.”
636. “(Trước đây) phận sự của ngài là gì? Còn có hạnh kiểm cao đẹp gì? Quả thành tựu này là của việc gì đã khéo được thực hành? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài: Bằng cách nào mà ngài đã đạt được Thiên cung này?”
637. “Vào lúc tôi cai quản vương quốc Kosala, Pāyāsi đã là danh hiệu của tôi. Lúc ấy tôi đã là người có quan điểm hư vô, keo kiệt, có bản tính xấu xa, và là người tuyên bố về đoạn kiến.
638. Và rồi đã có vị Sa-môn Kumārakassapa, đa văn, có sự thuyết giảng sinh động, cao thượng. Khi ấy, vị ấy đã thực hiện việc thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi, đã xua đuổi những sự méo mó về quan điểm cho tôi.
639. Tôi đây, sau khi lắng nghe sự thuyết giảng Giáo Pháp của vị ấy, đã tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Tôi đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và tôi đã không nói lời dối trá, tôi đã được vui thích (chỉ) với người vợ của mình.
640. Việc ấy là phận sự của tôi, việc ấy còn là hạnh kiểm cao đẹp. Quả thành tựu này là của việc đã khéo được thực hành ấy. Nhờ vào những nghiệp không xấu xa, nhờ vào những phước thiện ấy đấy, mà tôi đã đạt được Thiên cung này.”
641. “Nghe rằng những người có trí tuệ đã nói sự thật; lời nói của các bậc hiền trí là không sai khác. Người có nghiệp phước thiện đi đến bất cứ nơi nào đều vui sướng ở tại nơi ấy, là người có dục lạc theo như ước muốn.
642. Bất cứ nơi nào có sự sầu muộn và than vãn, có sự giết chóc và sự giam cầm, có sự chướng ngại, kẻ có ác pháp đi đến nơi ấy, không khi nào được thoát khỏi cảnh giới khổ đau.”
643. “Tập thể (chư Thiên) tựa như có vẻ bị bối rối, tựa như đã bị làm vẩn đục vào giây phút này. Thưa Thiên tử, vậy thì do điều gì mà tập thể này và ngài đã có sự thất vọng?”
644. “Thưa quý vị, từ khu rừng sirīsa kế cận những hương thơm này thuộc cõi Trời tỏa ra thơm ngát; sau khi đã tiêu diệt bóng tối vào ban ngày và ban đêm chúng tự tỏa đến Thiên cung này.
645. Và khi đã trải qua một trăm năm, chỉ một quả của những cây này được kết trái. Kể từ khi tôi được sanh ra ở tập thể (chư Thiên) tại nơi này thì một trăm năm nhân loại đã trôi qua.
646. Thưa quý vị, tôi đã nhìn thấy tôi sẽ tồn tại ở Thiên cung này năm trăm năm, do sự cạn kiệt của tuổi thọ, do sự cạn kiệt của phước báu, tôi sẽ chết; chính vì nỗi sầu muộn ấy tôi bị hoảng loạn.”
647. “Bằng cách nào mà vị ấy, thuộc thành phần như thế, sau khi đạt được Thiên cung không thể sánh bằng một cách lâu dài, lại có thể sầu muộn? Chỉ có những người nào đã được sanh lên một cách ngắn ngủi, phải chăng những người ấy, với phước báu ít ỏi, mới có thể sầu muộn?”
648. “Việc quý vị nói lời nói yêu mến với tôi (nghĩa là) điều khuyên bảo của tôi thích hợp đối với quý vị. Thưa quý vị, quý vị đã được tôi hộ trì theo như ước muốn, vì thế quý vị hãy lên đường một cách an toàn.”
649. “Sau khi đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra, chúng tôi với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận, có sự hào phóng đầy đủ theo như kế hoạch, sẽ làm lễ hội cao sang cho Serissa.”
650. “Quý vị chớ có làm lễ hội cho Serissa, và tất cả sẽ trở thành hiện thực cho quý vị theo điều quý vị nói. Quý vị hãy tránh xa hẳn các nghiệp ác xấu, và hãy phát nguyện gắn bó với Giáo Pháp.
651. Ở tập thể này, có người cận sự nam đa văn, được đầy đủ giới hạnh và phận sự, có đức tin, có sự hào phóng, và vô cùng tốt lành, có sự suy xét, tự hài lòng, có sự thận trọng.
652. Là người không cố tình nói lời dối trá, không suy nghĩ đến việc hãm hại người khác, không gây ra sự chia rẽ, đâm thọc, và nói lời mềm mỏng, tử tế.
653. Có sự tôn kính, có sự phục tùng, đã được huấn luyện, không độc ác, thanh tịnh về giới bậc thượng, có hạnh kiểm thánh thiện, con người ấy nuôi dưỡng mẹ và luôn cả cha đúng theo Pháp.
654. Tôi nghĩ rằng vị ấy tầm cầu của cải vì lý do (phụng dưỡng) mẹ cha, không vì nguyên nhân của bản thân. Với sự qua đời của mẹ và cha, người ấy, với khuynh hướng xuất ly, sẽ thực hành Phạm hạnh.
655. Là người ngay thẳng, không khúc mắc, không gian trá, không xảo quyệt, và không phát biểu theo lối viện cớ. Vị ấy, như thế ấy, là người tạo nên hành động đã được thực hiện một cách tốt đẹp, đứng vững trong Giáo Pháp, sao lại nhận lãnh sự khổ đau?
656. Bởi lý do người ấy, tôi tự thân hiện ra; vì thế, quý vị thương buôn hãy nhận thức Giáo Pháp. Ở đây, không có người ấy, quý vị có thể trở thành tro bụi, bị rối loạn như người mù, bị lạc lối trong khu rừng; (bởi vì) đối với kẻ đang xử tệ người ấy, như thế ấy hay việc khác nữa là điều dễ dàng. Quả vậy, việc kết giao với người tốt lành là hạnh phúc.”
657. “Người ấy tên là gì, làm nghề nghiệp gì, tên gọi là gì, hơn nữa họ của người ấy là gì? Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi cũng có mong muốn được gặp người ấy, vì lòng thương tưởng người ấy mà ngài đã đi đến nơi đây, bởi vì người nào mà ngài yêu quý thì lợi ích là thuộc về người ấy.”
658. “Người nào là thợ cạo, có tên gọi là Sambhava, là người cận sự nam, có sự nuôi mạng bằng lược và dao cạo, quý vị biết người ấy, người ấy là người sai vặt của quý vị. Đúng vậy, chớ khinh chê người ấy, người ấy vô cùng tốt lành.”
659. Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi biết người mà ngài nói, nhưng chúng tôi quả không biết người ấy là người như thế ấy. Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi cũng sẽ tôn vinh người ấy sau khi lắng nghe lời nói cao cả của ngài.”
660. “Bất cứ người nào ở đoàn xe này, thanh niên, lão niên, luôn cả trung niên, hết thảy tất cả những người ấy hãy bước lên Thiên cung, những kẻ keo kiệt hãy nhìn xem quả báo của các việc phước thiện.”
661. “Tại đó, sau khi đã đưa người thợ cạo ấy lên phía trước tại nơi ấy, hết thảy tất cả những người ấy (đã nói rằng): ‘Tôi trước,’ hết thảy tất cả những người ấy đã bước lên Thiên cung tựa như (Thiên cung) Masakkasāra của vị Vāsava (Chúa Trời Sakka).
662. Tại đó, hết thảy tất cả những người ấy (đã nói rằng): ‘Tôi trước’ và đã tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Họ đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, họ đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.
663. Không có việc uống chất say, và họ đã không nói lời dối trá, họ đã được vui thích (chỉ) với người vợ của mình. Tại đó, hết thảy tất cả những người ấy (đã nói rằng): ‘Tôi trước’ và đã tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Trong khi đang tùy hỷ với thần thông của vị Dạ-xoa đợt này đến đợt khác, đoàn xe, được cho phép, đã khởi hành.
664. Sau khi đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra, những người ấy với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận, có sự đạt được đầy đủ theo như kế hoạch, đã trở về lại Pāṭaliputta không bị tổn hại.
665. Những người ấy, sau khi đi về đến căn nhà của mình, có sự an toàn, được gần gũi với những người con và những người vợ, có sự vui thích, hớn hở, có tâm ý vui vẻ, trở nên mừng rỡ, đã làm lễ hội cao sang cho Serissa.
666. Những người ấy đã cho xây dựng tòa nhà Serissakā. Sự thân cận với những người tốt lành là như thế ấy, sự thân cận với những đức tính của Giáo Pháp là có lợi ích lớn, nhờ vào sự lợi ích của một cận sự nam, hết thảy tất cả chúng sanh đã có trạng thái hạnh phúc.”
Chuyện Ngạ Quỷ Serissaka là thứ nhì.
Tụng phẩm thứ ba.
667. Đức vua tên Piṅgalaka đã là vị chúa tể của xứ Suraṭṭha. Sau khi đi đến trợ giúp cho những người Moriya, đức vua đã trở về lại Suraṭṭha.
668. Vào lúc giữa trưa nóng nực, đức vua đã đi đến đầm lầy và đã nhìn thấy con đường đáng yêu, lối đi bằng cát của các ngạ quỷ.
669. Đức vua đã nói với người đánh xe rằng: “Con đường này xinh đẹp, an toàn, may mắn, tốt lành. Này xa phu, người hãy đi bằng lối này từ đây cho đến khu vực phụ cận của xứ Suraṭṭha.”
670. Đức vua xứ Suraṭṭha cùng với đạo binh gồm bốn binh chủng đã xuất phát theo lối đi ấy. Có (một) người nam với dáng vẻ kinh hoàng đã nói với đức vua xứ Suraṭṭha điều này:
671. “Chúng tôi đã đi vào con đường sai trái, ghê rợn, khiến nổi da gà, con đường được nhìn thấy ở phía trước và không được nhìn thấy ở phía sau.
672. Chúng tôi đã đi vào con đường sai trái, ở gần khu vực của các nam nhân cõi Dạ-ma, có mùi phi nhân tỏa ra, có âm thanh ghê rợn được nghe.”
673. Đức vua xứ Suraṭṭha, bị rúng động, đã nói với người đánh xe rằng: “Chúng ta đã đi vào con đường sai trái, ghê rợn, khiến nổi da gà; con đường được nhìn thấy ở phía trước và không được nhìn thấy ở phía sau.
674. Chúng ta đã đi vào con đường sai trái, ở gần nơi của các nam nhân cõi Dạ-ma, có mùi phi nhân tỏa ra, có âm thanh ghê rợn được nghe.”
675. Rồi đức vua đã cỡi lên lưng voi, quan sát bốn phương, và đã nhìn thấy cây đa đáng yêu, có bóng râm, giống như màu sắc của đám mây đen, tương đương với vẻ oai vệ về màu sắc của đám mây mưa.
676. Đức vua đã nói với người đánh xe rằng: “Vật to lớn kia trông giống như màu sắc của đám mây đen, tương đương với vẻ oai vệ về màu sắc của đám mây mưa là vật gì vậy?”
677. “Tâu đại vương, vật ấy là cây đa, có bóng râm, giống như màu sắc của đám mây đen, tương đương với vẻ oai vệ về màu sắc của đám mây mưa.”
678. Vua xứ Suraṭṭha đã tiến theo lối đi ấy về phía vật to lớn ấy, được nhìn thấy giống như màu sắc của đám mây đen, tương đương với vẻ oai vệ về màu sắc của đám mây mưa.
679. Sau khi leo xuống từ lưng voi, đức vua đã đi đến gần thân cây, rồi đã ngồi xuống ở gốc cây với viên quan cận thần và đoàn tùy tùng.
680. Đức vua đã nhìn thấy bình nước đầy và các loại bánh ngọt đa dạng. Và có (một) người nam với dáng vẻ Thiên nhân, được điểm tô với tất cả đồ trang sức, đã đi đến gần đức vua xứ Suraṭṭha và đã nói điều này:
681. “Tâu đại vương, việc đi đến của quý vị là tốt đẹp, hơn nữa đối với quý vị không phải là việc đi đến sai trái. Tâu vị thuần phục kẻ thù, xin bệ hạ hãy uống nước, hãy ăn các bánh ngọt.”
682. Đức vua cùng viên quan cận thần và nhóm tùy tùng đã uống nước, và đã ăn các bánh ngọt. Uống xong, đức vua xứ Suraṭṭha đã nói điều này:
683. “Phải chăng ngươi là Thiên nhân, là nhạc sĩ Thiên đình, hay là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây? Trong khi không biết, chúng tôi hỏi ngươi, làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết ngươi?”
684. “Tôi không là Thiên nhân, không là nhạc sĩ Thiên đình, cũng không là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây; tâu đại vương, tôi là ngạ quỷ đã từ xứ Suraṭṭha đi đến đây.”
685. “Trước đây ở Suraṭṭha ngươi đã có giới hạnh gì, có sự thực hành gì? Do hạnh kiểm cao đẹp nào của ngươi mà ngươi có năng lực này?”
686. “Tâu đại vương, tâu vị thuần phục kẻ thù, tâu vị làm quốc độ phát triển, xin bệ hạ hãy lắng nghe điều ấy; các viên quan cận thần, đoàn tùy tùng, và vị Bà-la-môn viên quan tế tự (cũng thế).
687. Tâu bệ hạ, từ xứ Suraṭṭha, tôi đã là người đàn ông có tâm ý ác xấu, có tà kiến và có giới tồi, keo kiệt, là kẻ mắng nhiếc (các Sa-môn và Bà-la-môn).
688. Tôi đã ngăn cản nhiều người trong khi họ đang bố thí. Tôi đã là người gây chướng ngại cho những người khác trong khi họ đang ban phát, (bằng cách nói rằng):
689. ‘Không có quả thành tựu của việc bố thí, từ đâu có quả báo của việc thu thúc (giới)? Không có người gọi là thầy dạy học, ai sẽ huấn luyện cho kẻ không được huấn luyện?
690. Các chúng sanh đều bằng nhau bình đẳng, do đâu lại có việc tôn kính người trưởng thượng? Không có sức mạnh hay sự tinh tấn, do đâu lại có người với sự vươn lên?
691. Không có cái gọi là quả báo của sự bố thí, không thể xóa sạch sự thù hằn, loài người nhận lãnh điều sẽ phải nhận lãnh, được sanh lên do sự xoay vần của số phận.
692. Không có mẹ, cha, anh em trai, không có thế giới nào khác với thế giới này, không có việc đã được bố thí, không có việc đã được hiến dâng, thậm chí việc đã khéo được quy định không được biết đến.
693. Thậm chí ai đó có thể giết chết người, có thể chặt đầu người khác, thì cũng chẳng có người nào giết chết người nào cả, (con dao đâm vào) khe hở ở khoảng giữa của bảy nhóm (các yếu tố cấu thành cơ thể).
694. Mạng sống không thể bị cắt đứt, không thể bị đập vỡ, là hình bát giác, là quả cầu tròn, (cao) năm trăm do-tuần, kẻ nào có khả năng cắt đứt mạng sống?
695. Giống như cuộn chỉ được ném ra, trong khi tháo rời, nó lăn đi, cũng tương tự y như thế, mạng sống ấy trong khi tháo rời, nó lăn đi.
696. Giống như người sau khi rời khỏi ngôi làng thì đi vào ngôi làng khác, cũng tương tự y như thế, mạng sống ấy đi vào thân thể khác.
697. Giống như người sau khi rời khỏi ngôi nhà thì đi vào ngôi nhà khác, cũng tương tự y như thế, mạng sống ấy đi vào thân thể khác.
698. Bởi vì những kẻ ngu và các người trí sau khi bị ném vào luân hồi cho đến tám mươi bốn trăm ngàn (8.400.000) đại kiếp thì sẽ thực hiện việc chấm dứt khổ đau.
699. Các khổ và lạc được đo lường bằng các đấu và các giỏ; đấng Chiến Thắng biết rõ tất cả, còn những người khác hoàn toàn mê muội.
700. Trước đây, tôi đã có tà kiến như vậy, hoàn toàn mê muội, bị bao trùm bởi si mê, có tà kiến và có giới tồi, keo kiệt, là kẻ mắng nhiếc (các Samôn và Bà-la-môn).
701. Trong vòng sáu tháng nữa, tôi sẽ chết. Tôi sẽ rơi vào địa ngục vô cùng khổ sở, ghê rợn.
702. Địa ngục có bốn góc, có bốn cửa, được phân chia thành các phần cân xứng, được bao quanh bằng tường sắt, được đậy lại bằng tấm sắt.
703. Mặt nền của nó làm bằng sắt, cháy rực, có sức nóng, tỏa rộng ra xung quanh một trăm do-tuần, và luôn luôn tồn tại.
704. Cứ đến mỗi một trăm ngàn năm thì được nghe tiếng vang. Tâu đại vương, đó là một lakkha; một trăm lần (lakkha) là số năm tính theo koṭi.1
705. Những kẻ có tà kiến và có giới tồi, và những kẻ chỉ trích bậc Thánh nhân bị nung nấu ở địa ngục một trăm ngàn koṭi năm.
706. Tại nơi ấy, tôi đã cảm giác cảm thọ khổ, quả báo của nghiệp ác một thời gian dài lâu; vì việc ấy tôi sầu muộn vô cùng.
707. Tâu đại vương, tâu vị thuần phục kẻ thù, tâu vị làm quốc độ phát triển, xin bệ hạ hãy lắng nghe điều ấy. Tâu đại vương, con gái của tôi là Uttarā. Cầu mong bệ hạ được điều tốt lành.
708. Cô ấy tạo nghiệp tốt lành, thích thú các giới và ngày trai giới, có sự tự kiềm chế và có sự san sẻ, có sự ân cần, đã xa lìa sự bỏn xẻn.
709. Cô ấy là người có sự thực hành không bể vỡ về điều học, và nhu mì ở các gia đình những người khác, là cận sự nữ của vị Hiền Trí dòng Sakya, bậc Toàn Giác, đấng Vinh Quang.
710. Có vị tỳ khưu đầy đủ giới đức đã đi vào làng để khất thực, mắt nhìn xuống, có niệm, có giác quan được canh phòng, khéo được thu thúc.
711. Trong khi đi tuần tự theo từng nhà, vị ấy đã đi đến chỗ trú ngụ ấy.
Tâu đại vương, Uttarā đã nhìn thấy vị ấy. Cầu mong bệ hạ được điều tốt lành.
712. Và cô ấy đã dâng cúng bình nước đầy và các loại bánh ngọt đa dạng (nói rằng): ‘Thưa ngài, cha tôi đã qua đời, mong rằng việc này thành tựu đến ông ấy.’
713. Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức, tôi thọ hưởng, là người có dục lạc theo như ước muốn, giống như Thiên Vương Vessavaṇa.
714. Tâu đại vương, tâu vị thuần phục kẻ thù, tâu vị làm quốc độ phát triển, xin bệ hạ hãy lắng nghe điều ấy. Đức Phật được gọi là bậc cao cả của thế gian luôn cả chư Thiên. Tâu vị thuần phục kẻ thù, bệ hạ cùng vợ và các con hãy đi đến nương nhờ đức Phật ấy.
715. Nhờ vào Đạo Lộ tám chi phần, các ngài chạm đến vị thế Bất Tử. Tâu vị thuần phục kẻ thù, bệ hạ cùng vợ và các con hãy đi đến nương nhờ Giáo Pháp ấy.
716. Bốn hạng đã thực hành Đạo Lộ và bốn hạng đã trụ ở Quả vị, Hội Chúng ấy có bản thể chính trực, có Giới - Định - Tuệ. Tâu vị thuần phục kẻ thù, bệ hạ cùng vợ và các con hãy đi đến nương nhờ Hội Chúng ấy.
717. Bệ hạ hãy lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, hãy xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, chớ có việc uống chất say và nói lời dối trá, và hãy vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”
718. “Này vị Dạ-xoa, ngươi là người mong mỏi sự tốt đẹp cho trẫm. Này vị Thiên nhân, ngươi là người mong mỏi sự lợi ích cho trẫm. Trẫm thực hành lời nói của ngươi; ngươi là thầy dạy học của trẫm.
719. Trẫm đi đến nương nhờ đức Phật, luôn cả Giáo Pháp vô thượng, và trẫm đi đến nương nhờ Hội Chúng thuộc về vị Trời của nhân loại.
720. Trẫm lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, trẫm xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và trẫm không nói lời dối trá, và trẫm vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”
721. Trẫm (sẽ) sàng lọc ở trong cơn gió mạnh, hoặc ở dòng sông chảy xiết, rồi loại bỏ tà kiến ác xấu; trẫm (sẽ) vui thích trong lời dạy của chư Phật.”
722. Sau khi nói điều này, sau khi loại bỏ quan điểm ác xấu, sau khi thực hiện việc kính lễ đến đức Thế Tôn, vị vua xứ Suraṭṭha đã bước lên xe, mặt nhìn hướng đông.
Chuyện Ngạ Quỷ Nandaka là thứ ba.
723. “Này Revatā, này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cô hãy đứng lên. Này cô nàng không có nết hạnh bố thí, cánh cửa (địa ngục) là không bị đóng lại. Chúng tôi sẽ đưa cô đến nơi mà những kẻ bị đọa vào khổ cảnh than khóc, (và) những kẻ địa ngục bị gánh chịu khổ đau.”
724. Sau khi chỉ nói như thế, các sứ giả cõi Dạ-ma, hai Dạ-xoa ấy, có cặp mắt đỏ ngầu, cao to, mỗi người một cánh tay, đã nắm lấy Revatā rồi đi đến nơi có sự hiện diện của hội chúng chư Thiên.
725. “Thiên cung xinh đẹp, được che phủ bằng mạng lưới vàng, có màu sắc của mặt trời, đáng yêu, rực rỡ. Thiên cung này, có người đông đảo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người nào?
726. Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung điện được sáng chói cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nhìn thấy có màu sắc như là mặt trời. Người nào đã đạt đến cõi Trời và vui sướng ở Thiên cung?”
727. “Ở Bārāṇasī, đã có người cận sự nam tên là Nandiya, không bỏn xẻn, là người thí chủ, là người nhân từ. Thiên cung này, có người đông đảo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người ấy.
728. Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung điện được rực sáng cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nhìn thấy có màu sắc như là mặt trời. Người ấy đã đạt đến cõi Trời và vui sướng ở Thiên cung.”
729. “Tôi là người vợ của Nandiya, là nữ gia chủ, có uy quyền đối với tất cả gia đình. Giờ đây, tôi sẽ thích thú ở Thiên cung của chồng, tôi không mong mỏi về việc nhìn thấy địa ngục.”
730. “Này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cái địa ngục ấy là dành cho cô. Việc phước thiện đã không được cô làm khi ở thế giới có cuộc sống. Bởi vì người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đạt được sự cộng trú với những người đã đi đến cõi Trời.”
731. “Phân và nước tiểu nhơ bẩn được nhìn thấy là cái gì vậy? Cái mùi hôi thối này là cái gì? Cái phân bốc mùi này là cái gì?”
732. “Này Revatā, cái ấy gọi là địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam, là nơi cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.”
733. “Vậy việc làm ác nào đã được làm do thân, do khẩu, do ý? Vì việc gì mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam?”
734. “Cô lừa gạt các Sa-môn, các Bà-la-môn, và luôn cả những người khốn khổ khác nữa bằng lời nói dối trá; việc xấu xa ấy đã do cô gây ra.
735. Này Revatā, do việc ấy mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam, ở nơi ấy cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.
736. Chúng chặt các bàn tay, rồi luôn cả các bàn chân, chúng xẻo các lỗ tai, rồi luôn cả lỗ mũi, rồi còn có các bầy quạ bu lại, tụ tập lại, ngấu nghiến kẻ đang quằn quại.”
737. “Quả là tốt đẹp, xin các vị hãy đưa tôi trở về, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện, là việc mà sau khi thực hành, người ta được hạnh phúc và không bị ân hận về sau này.”
738. “Trước đây cô đã xao lãng rồi bây giờ than van. Cô sẽ gánh chịu quả thành tựu của các nghiệp đã làm của mình.”
739. “Vị nào, sau khi từ thế giới chư Thiên đi đến thế giới loài người, được tôi hỏi rồi nói như vầy: ‘Nàng nên dâng cúng vật thí, y phục, chỗ nằm, và cơm nước ở những vị đã buông các gậy gộc xuống, bởi vì người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đạt được sự cộng trú với những người đã đi đến cõi Trời?’
740. Chắc chắn rằng tôi đây, khi đã đi khỏi nơi này, sau khi đạt được việc sanh lại làm người, (tôi sẽ) là người nhân từ, đầy đủ giới hạnh, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện.
741. Với tâm ý tịnh tín, tôi sẽ cho dựng lên các tu viện, các cây cầu ở chỗ khó đi, nước uống dọc đường, và giếng nước.
742. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.
743. Tôi sẽ hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới, và sẽ không xao lãng trong việc bố thí; điều này đã được đích thân tôi nhìn thấy.”
744. Trong khi cô ấy đang rên rỉ như thế, đang quằn quại thế này thế khác, chúng đã ném cô ấy vào địa ngục ghê rợn, chân phía trên, đầu phía dưới.
745. “Trước đây, tôi đã là người bỏn xẻn, là người mắng nhiếc các vị Samôn và Bà-la-môn, và sau khi dối gạt người chồng bằng việc không thật, tôi bị nung nấu ở địa ngục có hình thức ghê rợn.”
Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Revatī là thứ tư.
746. “Rừng mía rộng lớn này sanh lên cho tôi là quả phước không phải ít, mà giờ đây nó không đem lại (cho tôi) việc thọ hưởng. Thưa ngài, xin ngài hãy nói cho đây là quả thành tựu của việc gì?
747. Tôi bị đánh đập và bị nhai nghiến. (Khi) tôi ra sức, cố gắng thọ dụng cái gì đó, thì tôi đây có sức lực bị đứt đoạn, thê thảm, nên than vãn; đây là quả thành tựu của việc gì?
748. Và bị ánh đập, tôi ngã quỵ ở mặt đất. Tôi lăn quay trong sự nóng bức tựa như loài cá (ở đất khô nóng bỏng). Và trong khi khóc lóc, nước mắt của tôi nhỏ xuống. Thưa ngài, xin ngài hãy nói cho đây là quả thành tựu của việc gì?
749. Bị đói, bị nhọc mệt, và bị khát, bị hoảng sợ, tôi không tìm thấy thoải mái, an lạc. Thưa ngài đại đức, tôi hỏi ngài về việc này, làm thế nào tôi có thể đạt được việc thọ dụng mía?”
750. “Trước đây, ngươi đã đích thân tạo nghiệp khi là con người trong kiếp sống trước đây. Và ta nói cho ngươi về việc này. Sau khi lắng nghe, ngươi hãy nhận biết về việc này.
751. Ngươi đã bước đi trong lúc nhai mía. Và người đàn ông đã đi theo sau lưng ngươi. Trong lúc mong mỏi, người ấy đã nói với ngươi, ngươi đã không nói điều gì với người ấy.
752. Và trong lúc ngươi không nói, người ấy đã cầu xin và đã nói với ngươi rằng: ‘Này ông, xin ông cho mía.’ Ngươi đã cho người ấy cây mía ở sau lưng của ngươi; đây là quả thành tựu của nghiệp ấy.
753. ‘Này, ông hãy cầm lấy cây mía ở sau lưng, sau khi cầm lấy ông hãy ăn tùy theo ý thích. Do chính điều ấy, ông sẽ hoan hỷ, vui mừng, phấn khởi, và hứng thú.’
754. Người ấy đã đi đến cầm lấy (cây mía) ở sau lưng, sau khi cầm lấy đã nhai nó tùy theo ý thích. Do chính điều ấy, ông ấy đã trở nên hoan hỷ, vui mừng, phấn khởi, và hứng thú.”
Chuyện Ngạ Quỷ Mía là thứ năm.
755. Ở sườn núi Hy-mã-lạp có thành phố tên là Sāvatthi. Tôi đã được nghe rằng: ‘Có hai thanh niên, con trai của đức vua, đã ngụ tại nơi ấy.’
756. Bị say đắm ở các sự ái luyến, vui thích sự khoái lạc ở các dục, tham đắm ở sự sung sướng trong hiện tại, họ đã không nhìn về tương lai.
757. Và họ ã chết đi, lìa bản thể nhân loại, từ nơi đây họ đã đi đến thế giới khác. Ở nơi này, trong khi không được nhìn thấy, họ kêu than về việc xấu xa đã làm của bản thân trong thời quá khứ (nói rằng):
758. “Hỡi ôi, khi các bậc đạo đức có nhiều, khi các vật bố thí được sẵn sàng, chúng tôi đã không thể làm chút ít việc đem lại sự an lạc cho bản thân.
759. Có thể có việc gì tồi tệ hơn thế ấy, là việc chúng tôi đã chết đi từ dòng dõi vua chúa rồi bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát?”
760. Họ đã là những người chủ ở nơi đây, và không còn là những người chủ ở nơi khác. Lúc là loài người, họ đã được nâng cao, và (giờ đây) bị hạ thấp, họ lang thang trong sự đói khát.
761. Sau khi biết được điều bất lợi ấy có nguồn sanh khởi là sự say đắm quyền lực, sau khi dứt bỏ sự say đắm quyền lực, con người có thể đi đến cõi Trời; do sự tan rã của thân xác, người có trí tuệ ấy được sanh lên cõi Trời.
Chuyện Ngạ Quỷ Hai Người Thanh Niên là thứ sáu.
762. Quả thành tựu của các nghiệp đã được làm trong thời quá khứ có thể khuấy động tâm ý do duyên cảnh sắc, thinh, vị, hương, và xúc làm thích ý.
763. Sau khi hưởng thụ điệu vũ, lời ca, sự khoái lạc, sự vui thích không phải là ít, sau khi đi lang thang ở vườn hoa, (vị Sát-đế-lỵ) đi vào Giribbaja.
764. Vị Sát-đế-lỵ đã nhìn thấy bậc ẩn sĩ Sunetta, vị đã chế ngự bản thân, được định tĩnh, có ít ham muốn, thành tựu sự khiêm tốn, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực.
765. Sau khi leo xuống từ lưng voi, vị Sát-đế-lỵ đã nói rằng: ‘Thưa ngài, đã được nhận lãnh (vật thực) chưa ạ?’ rồi đã cầm lấy bình bát của vị ấy đưa lên cao.
766. Trong lúc cười giỡn, vị Sát-đế-lỵ đã đập vỡ bình bát ở nền đất cứng, rồi đã bỏ đi (nói rằng): ‘Tôi là con trai của đức vua Kitava. Này ông tỳ khưu, ông sẽ làm gì tôi?’
767. Quả thành tựu của hành động thô lỗ của vị (Sát-đế-lỵ) ấy đã là dữ dội, là việc người con trai của đức vua đã cảm thọ, đã bị gánh chịu ở địa ngục.
768. Kẻ đã làm điều tội lỗi đã trải nghiệm sự khổ sở vô cùng ở địa ngục đến sáu lần của thời gian tám mươi bốn ngàn năm.
769. Kẻ ấy ã bị nung nấu ở tư thế nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng bên trái, nằm nghiêng bên phải, chân ở phía trên (chổng ngược), và luôn cả tư thế đứng; kẻ ngu si đã bị nung nấu dài lâu.
770. Trong nhiều ngàn năm và nhiều lần mười ngàn (năm), kẻ đã làm điều tội lỗi đã trải nghiệm sự khổ sở vô cùng ở địa ngục.
771. Thật vậy, sau khi công kích bậc ẩn sĩ có sự hành trì tốt đẹp, không tồi bại, không tội lỗi, những kẻ có hành động ác xấu bị nung nấu dữ dội như thế ấy.
772. Sau khi cảm thọ nhiều khổ đau ở tại nơi ấy nhiều năm, sau khi chết đi từ nơi ấy đã trở thành ngạ quỷ, đương nhiên bị hành hạ bởi sự đói khát.
773. Sau khi biết được điều bất lợi ấy có nguồn sanh khởi là sự say đắm quyền lực, sau khi dứt bỏ sự say đắm quyền lực, nên hành xử theo lối nhún nhường.
774. Người nào có sự tôn kính đối với chư Phật được sự ngợi khen ngay trong hiện tại; do sự tan rã của thân xác, người có trí tuệ ấy được sanh lên cõi Trời.
Chuyện Ngạ Quỷ Con Trai của Đức Vua là thứ bảy.
775. “Sau khi đi lên từ hố phân, ngươi là ai mà đứng thật thảm thương? Đương nhiên là kẻ có hành động ác xấu, tại sao ngươi lại gây tiếng ồn?”
776. “Thưa ngài đại đức, con là ngạ quỷ bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây con đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
777. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà ngươi lại trải nghiệm sự khổ đau này?”
778. “Vị (tỳ khưu) thường trú (ở trú xá) của con đã có sự ganh tỵ, có sự bỏn xẻn về gia đình (thí chủ). Bị dính mắc với trú xá của con, vị ấy trở nên keo kiệt, là kẻ mắng nhiếc.
779. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ấy, con đã mắng nhiếc các vị tỳ khưu. Do quả thành tựu của nghiệp ấy, từ nơi đây con đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
780. “Kẻ thường tới lui với gia đình ngươi có dáng vẻ bạn hữu nhưng không phải là bạn hữu; do sự tan rã của thân xác, kẻ có trí tồi ấy sau khi chết đã đi đến cảnh giới nào?”
781. “Con đứng ở trên đầu, nơi chóp đỉnh, của chính kẻ có hành động ác xấu ấy, và kẻ ấy đã đạt đến vị thế khác, là người hầu hạ của riêng con.
782. Thưa ngài, vật nào mà những người khác thải ra, vật ấy là thức ăn của con. Và sau đó, vật mà con thải ra, kẻ ấy sống nhờ vật ấy.”
Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Phân là thứ tám.
783. Sau khi đi lên từ hố phân, cô là ai mà đứng thật thảm thương? Đương nhiên là kẻ có hành động ác xấu, tại sao cô lại gây tiếng ồn?”
784. “Thưa ngài đại đức, con là nữ ngạ quỷ bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây con đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
785. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà cô lại trải nghiệm sự khổ đau này?”
786. “Vị (tỳ khưu) thường trú (ở trú xá) của con đã có sự ganh tỵ, có sự bỏn xẻn về gia đình (thí chủ). Bị dính mắc với trú xá của con, vị ấy trở nên keo kiệt, là kẻ mắng nhiếc.
787. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ấy, con đã mắng nhiếc các vị tỳ khưu. Do quả thành tựu của nghiệp ấy, từ nơi đây con đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
788. Kẻ thường tới lui với gia đình cô với dáng vẻ bạn hữu không phải là bạn hữu, do sự tan rã của thân xác, kẻ có trí tồi sau khi chết đã đi đến cảnh giới nào?”
789. “Con đứng ở đầu, nơi chóp đỉnh, của chính kẻ có hành động ác xấu ấy, và kẻ ấy đã đạt đến lãnh vực khác, là người hầu hạ của riêng con.
790. Thưa ngài, vật nào mà những người khác thải ra, vật ấy là thức ăn của con. Và sau đó, vật mà con thải ra, kẻ ấy sống nhờ vật ấy.”
Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Ăn Phân là thứ chín.
791. Này các ông, các ông có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân, lòi cả xương sườn, gầy guộc, các ông là những ai vậy?”
792. “Thưa ngài đại đức, chúng tôi là ngạ quỷ bị đọa đày, thuộc cõi Dạma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây chúng tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
793. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây các ông đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”
794. “Ở những bến tắm không bị ngăn cấm, chúng tôi đã góp nhặt từng nửa đồng tiền māsaka. Trong khi các vật bố thí đang hiện hữu, chúng tôi đã không tạo lập hòn đảo (nương nhờ) cho bản thân.
795. Bị khát (nước), chúng tôi đi đến gần dòng sông thì dòng sông trở nên khô cạn. Vào những lúc nóng, chúng tôi đi đến gần bóng râm thì bóng râm trở thành ánh nắng mặt trời.
796. Và làn gió, có dáng vẻ của ngọn lửa, thổi đến đốt nóng chúng tôi. Và thưa ngài, chúng tôi xứng đáng với việc này và việc khác tồi tệ hơn thế ấy.
797. Chúng tôi còn đi nhiều do-tuần, bị đói ăn, có sự ham muốn về vật thực, lại chẳng được thọ lãnh, chúng tôi quay trở lại. Ôi, tình trạng phước báu ít ỏi của chúng tôi!
798. Bị đói, bị choáng váng, lảo đảo, quỵ xuống ở mặt đất, chúng tôi dã dượi nằm ngửa ra, chúng tôi té ngã sụm xuống.
799. Và ngay tại nơi ấy, bị té ngã, quỵ xuống ở mặt đất, chúng tôi đây đấm ngực và đầu. Ôi, tình trạng phước báu ít ỏi của chúng tôi!
800. Và thưa ngài, chúng tôi xứng đáng với việc này và việc khác tồi tệ hơn thế ấy. Trong khi các vật bố thí đang hiện hữu, chúng tôi đã không tạo lập hòn đảo (nương nhờ) cho bản thân.
801. Chắc chắn rằng chúng tôi đây, sau khi đi khỏi nơi này, sau khi đạt được sự xuất thân thuộc loài người, sẽ là những người nhân từ, đầy đủ giới hạnh, sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp.”
Chuyện Nhóm Ngạ Quỷ là thứ mười.
802. “Nàng đã nhìn thấy địa ngục, chủng loại súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-la, luôn cả loài người, chư Thiên. Nàng đã đích thân nhìn thấy quả thành tựu của nghiệp của bản thân, ta sẽ đưa nàng đến Pāṭaliputta, không bị tổn hại. Sau khi đi đến nơi ấy, nàng hãy tạo nghiệp tốt lành.”
803. “Thưa vị Dạ-xoa, ngài là người mong mỏi sự tốt đẹp cho thiếp. Thưa vị Thiên nhân, ngài là người mong mỏi sự lợi ích cho thiếp. Thiếp thực hành lời nói của ngài; ngài là thầy dạy học của thiếp.
804. Thiếp đã nhìn thấy địa ngục, chủng loại súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-la, luôn cả loài người, chư Thiên. Thiếp đã đích thân nhìn thấy quả thành tựu của nghiệp của bản thân, thiếp sẽ thực hiện không ít các việc phước thiện.”
Chuyện Ngạ Quỷ ở Pāṭaliputta là thứ mười một.
805. “Và hồ sen này của ngươi rất đáng yêu, có những bãi tắm đẹp bằng phẳng, và có nhiều nước, đã khéo được trổ hoa, có các bầy ong vò vẽ lúc nhúc; bằng cách nào ngươi đạt được (hồ sen) làm hài lòng này?
806. Và khu rừng xoài này của ngươi rất đáng yêu, mang nặng các trái ở tất cả các mùa, đã khéo được trổ hoa, có các bầy ong vò vẽ lúc nhúc; bằng cách nào ngươi đạt được cung điện này?”
807. “(Vật thí gồm có) xoài chín, nước, cháo; nhờ vào vật thí đã được dâng cúng ấy của người con gái, ở nơi này tôi đã đạt được bóng râm mát mẻ, làm thích ý.”
808. “Quý vị hãy nhìn xem nghiệp được thấy rõ ràng như thế này, quả thành tựu của sự bố thí, của sự rèn luyện, của sự thu thúc: sau khi là nữ tỳ trong các gia đình của ông chủ, tôi trở thành con dâu và là nữ chủ nhân của gia đình.”
Chuyện Ngạ Quỷ ở Hồ Sen là thứ mười hai.
809. “Vật mà người bố thí, không hẳn (quả thành tựu) lại là vật ấy. Ông hãy bố thí; người ban bố vật thí vượt qua cả hai (khổ đau và bất hạnh trong kiếp này và vị lai), nhờ vào việc bố thí ấy mà đi đến cả hai (sự lợi ích và an vui trong kiếp này và vị lai). Ông hãy tỉnh thức, ông chớ xao lãng.”
Chuyện Ngạ Quỷ ở Cây Xoài là thứ mười ba.
810. “Chúng tôi gom góp các của cải theo cách đúng đắn và không đúng đắn; những người khác thọ hưởng các của cải ấy, còn chúng tôi chịu phần khổ đau.”
Chuyện Ngạ Quỷ Gom Góp Của Cải là thứ mười bốn.
811. Tổng cộng là sáu mươi ngàn năm tròn, khi nào sẽ là sự chấm dứt cho (chúng tôi) những người đang bị nung nấu ở địa ngục?
812. Thưa ông, theo như việc ác đã do tôi và ông đã gây ra thì (sự khổ đau của tôi và ông) không có sự chấm dứt, sự chấm dứt do đâu mà có, sự chấm dứt không được nhìn thấy.
813. Chúng tôi đã sống cuộc sống tồi tệ, chúng tôi đã không bố thí các vật đang có. Trong khi các vật bố thí đang hiện hữu, chúng tôi đã không tạo lập hòn đảo (nương nhờ) cho bản thân.
814. Chắc chắn rằng tôi đây, sau khi đi khỏi nơi này, sau khi đạt được sự xuất thân thuộc loài người, sẽ là người nhân từ, đầy đủ giới hạnh, sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp.”
Chuyện Ngạ Quỷ Các Con Trai Nhà Triệu Phú là thứ mười lăm.
815. “Tại sao ngươi bỏ chạy như có vẻ điên khùng, tựa như con nai bị lạc lối? Đương nhiên là kẻ có hành động ác xấu, tại sao ngươi lại gây tiếng ồn?”
816. “Thưa ngài đại đức, tôi là ngạ quỷ bị đọa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.
817. Tổng cộng là đầy đủ sáu mươi ngàn quả búa tạ rơi xuống đầu của tôi; và chúng làm vỡ cái đầu (của tôi).”
818. “Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà ngươi lại trải nghiệm sự khổ đau này?
819. Tổng cộng là đầy đủ sáu mươi ngàn quả búa tạ rơi xuống đầu của ngươi; và chúng làm vỡ cái đầu (của ngươi).”
820. “Khi ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Giác Ngộ Sunetta, có giác quan đã được tu tập, ngồi ở gốc cây, đang tham thiền, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.
821. Bằng việc ném đá, tôi đã làm vỡ cái đầu của vị ấy. Do quả thành tựu của nghiệp ấy mà tôi trải nghiệm sự khổ đau này.
822. Tổng cộng là đầy đủ sáu mươi ngàn quả búa tạ rơi xuống đầu của tôi; và chúng làm vỡ cái đầu (của tôi).”
823. “Này kẻ xấu xa, một cách hợp lẽ đối với ngươi. Tổng cộng là đầy đủ sáu mươi ngàn quả búa tạ rơi xuống đầu của ngươi; và chúng làm vỡ cái đầu
(của ngươi).”
Chuyện Ngạ Quỷ với Sáu Mươi Ngàn Quả Búa Tạ là thứ mười sáu.
Đại Phẩm là thứ tư.
--ooOoo--
Tóm Lược Phẩm Này
(Chuyện) Ambasakkhara, Serissaka, Piṅgala, Revatī, những kẻ ăn mía, hai người thanh niên, hai kẻ ăn phân, nhóm (ngạ quỷ), Pāṭaliputta, và hồ sen, cây xoài, gom góp của cải, con trai nhà triệu phú, sáu mươi (ngàn) quả búa tạ, như vậy là mười sáu câu chuyện; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.
Chuyện ngạ quỷ được đầy đủ.
--ooOoo--