>>>Bấm vào đây đến trang nguồn<<<
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
CHUYỆN THIÊN CUNG
Chuyển ngữ: Bhikkhu Indacanda
Tāni ca sutte otāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni sutte ceva otaranti vinaye ca sandissanti, niṭṭham ettha gantabbaṃ: ‘Addhā idaṃ tassa bhagavato vacanaṃ, tassa ca therassa suggahitan’ti.
(Dīghanikāya II, Mahāparinibbānasutta).
Các điều ấy (những lời đã được nghe thuyết giảng) cần được đối chiếu ở Kinh, cần được xem xét ở Luật, và chỉ khi nào chúng hiện diện ở Kinh và được thấy ở Luật, thời điều kết luận có thể rút ra ở đây là: “Điều này chắc chắn là lời giảng dạy của đức Thế Tôn và đã được vị trưởng lão ấy tiếp thâu đúng đắn.
(Trường Bộ II, Kinh Đại Bát-Niết-Bàn).
CHUYỆN THIÊN CUNG
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
1. “Chiếc ghế của nàng làm bằng vàng, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở đỉnh đám mây.
2. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
3. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
4. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
5. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã bố thí chỗ ngồi nhỏ cho những người khách đi đến. Tôi đã chào hỏi, đã chắp tay, và đã dâng vật thí tùy theo khả năng.
6. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
7. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Chiếc Ghế thứ nhất.
8. “Chiếc ghế của nàng làm bằng ngọc bích, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở trên đỉnh đám mây.
9. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) c thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ
thích ý sanh lên cho nàng?
10. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
11. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
12. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã bố thí chỗ ngồi nhỏ cho những người khách đi đến. Tôi đã chào hỏi, đã chắp tay, và đã dâng vật thí tùy theo khả năng.
13. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
14. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Chiếc Ghế thứ nhì.
15. “Chiếc ghế của nàng làm bằng vàng, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở trên đỉnh đám mây.
16. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
17. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
18. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
19. “Đây là quả báo của việc làm ít ỏi của tôi, do điều ấy mà tôi có oai lực c rực sáng như vầy. Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống
trước đây ở thế giới loài người, ...
20. ... tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng chiếc ghế đến vị ấy.
21. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
22. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Chiếc Ghế thứ ba.
23. “Chiếc ghế của nàng làm bằng ngọc bích, cao sang, di chuyển với tốc độ của tâm theo như ước muốn. Hỡi cô nàng đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, nàng chói sáng tựa như tia chớp ở trên đỉnh đám mây
24. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
25. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
26. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
27. “Đây là quả báo của việc làm ít ỏi của tôi, do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy. Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, ...
28. ... tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng chiếc ghế đến vị ấy.
29. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) c thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý
sanh lên cho tôi.
30. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Chiếc Ghế thứ tư.
31. “Con voi của nàng là vật cỡi cao quý, có sự trang hoàng với nhiều loại châu báu, khả ái, mạnh mẽ, có sự nhanh nhẹn, di chuyển an toàn ở không trung.
32. Hỡi nàng có mắt hình lá sen, (con voi của nàng) có màu sắc tựa như hoa sen, có sự rực rỡ với màu sen hồng và sen xanh, có thân hình được rải rắc với nhụy phấn của hoa sen, có đeo tràng hoa sen bằng vàng.
33. Con voi đi một cách đều đều, ổn định, êm đềm, không gây xóc ở con đường được rải đầy hoa sen, được tô điểm với những lá sen.
34. Trong lúc con voi đang tiến bước, những chiếc chuông vàng (phát lên) âm thanh êm dịu. Tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
35. Ở trên thân của con voi ấy, nàng với xiêm y tinh khiết, đã được trang điểm, sáng chói vượt trội đoàn tiên nữ đông đảo về phương diện sắc đẹp.
36. Quả báo này của nàng là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin nàng hãy giải thích điều ấy cho ta.”
37. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
38. “Sau khi nhìn thấy vị thành tựu các đức hạnh, chứng thiền, thích thú về thiền, tốt lành, tôi đã dâng chỗ ngồi được phủ lên lớp vải, được rải rắc các bông hoa.
39. Được tịnh tín, tôi đã tự tay rắc lên ở xung quanh chỗ ngồi với những cánh hoa sen của một nửa bông hoa sen hồng.
40. Quả báo này như vầy của tôi là do nghiệp thiện ấy. Tôi có được sự tôn vinh, có được sự kính trọng, và được sùng bái bởi chư Thiên.
41. Nếu người nào tịnh tín dâng cúng chỗ ngồi đến các vị hành Phạm hạnh, thanh tịnh, đã được chân chánh giải thoát, sẽ được vui sướng như thế giống như tôi vậy.
42. Chính vì điều đó, những người mong mỏi lợi ích, ao ước quả báo lớn lao thì nên dâng cúng chỗ ngồi đến những vị đang mang thân mạng cuối cùng.”
Thiên Cung Voi.
43. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, sau khi bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng. Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay.
44. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
45. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
46. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
47. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, sau khi nhìn thấy các vị tỳ khưu bị thiếu nước, bị mệt nhọc, tôi đã đứng lên và đã dâng nước để uống.
48. Quả vậy, người nào đứng lên và dâng nước để uống đến những người bị mệt nhọc, bị khát nước, người ấy có được những dòng sông có nước mát, lắm bông hoa, và nhiều sen trắng.
49. Những dòng nước luôn luôn chảy xung quanh người ấy, những con sông có nước mát, được trải lót bằng cát. Có những cây xoài, cây sālā, cây tilakā, cây mận đỏ, cây bã đậu, và cây loa kèn nở rộ hoa.
50. Thiên cung hạng nhất ấy, có vẻ đẹp được ban cho với những vùng đất (như thế ấy), đang chiếu sáng rực rỡ. Ở đây, quả thành tựu này là của nghiệp ấy. Những người có phước báu đã làm đạt được như thế này.
51. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
52. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Chiếc Thuyền thứ nhất.
53. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, sau khi bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng. Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay.
54. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
55. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
56. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
57. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu bị thiếu nước, bị mệt nhọc, tôi đã đứng lên và đã dâng nước để uống.
58. Quả vậy, người nào đứng lên và dâng nước để uống đến người bị mệt nhọc bị khát nước, người ấy có được con sông có nước mát, lắm bông hoa, và nhiều sen trắng.
59. Những dòng nước luôn luôn chảy xung quanh người ấy, những con sông có nước mát, được trải lót bằng cát. Có những cây xoài, cây sālā, cây tilakā, cây mận đỏ, cây bã đậu, và cây loa kèn nở rộ hoa.
60. Thiên cung hạng nhất ấy, có vẻ đẹp được ban cho với những vùng đất (như thế ấy), đang chiếu sáng rực rỡ. Ở đây, quả thành tựu này là của nghiệp ấy. Những người có phước báu đã làm đạt được như thế này.
61. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
62. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Chiếc Thuyền thứ nhì.
63. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, sau khi bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng. Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay.
64. Những ngôi nhà mái nhọn, các chỗ ngụ của nàng, được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.
65. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
66. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, Ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
67. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được chính đấng Toàn Giác hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
68. “Con, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, sau khi nhìn thấy các vị tỳ khưu bị thiếu nước, bị mệt nhọc, con đã đứng lên và đã dâng nước để uống.
69. Quả vậy, người nào đứng lên và dâng nước để uống đến những người bị mệt nhọc bị khát nước, người ấy có được con sông có nước mát, lắm bông hoa, và nhiều sen trắng.
70. Những dòng nước luôn luôn chảy xung quanh người ấy, những con sông có nước mát, được trải lót bằng cát. Có những cây xoài, cây sālā, cây tilakā, cây mận đỏ, cây bã đậu, và cây loa kèn nở rộ hoa.
71. Thiên cung hạng nhất ấy, đang chiếu sáng rực rỡ, có được vẻ đẹp nhờ vào những khu vực của vùng đất. Ở đây, quả thành tựu này là của nghiệp ấy. Những người có phước báu đã tạo (trước đây) đạt được như thế này.
72. Những ngôi nhà mái nhọn, các chỗ ngụ của con, được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.
73. Do điều ấy, con có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho con ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho con.
74. Do điều ấy mà con có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của con chiếu sáng khắp các phương. Quả báo này của con là của nghiệp ấy. Đức Phật đã uống nước vì sự lợi ích (của con).”
Thiên Cung Chiếc Thuyền thứ ba.
75. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
76. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
77. Hỡi nàng tiên, do điều gì mà nàng có hào quang không bị vẩn đục sáng chói vượt trội? Do điều gì mà khắp các phương đều chói sáng nhờ vào tất cả các phần thân thể của nàng?
78. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
79. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
80. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, vào đêm tối đen mù mịt ấy, tôi đã bố thí cây đèn vào thời điểm cần đến đèn.
81. Người nào, vào đêm tối đen mù mịt, bố thí cây đèn vào thời điểm cần đến đèn thì được sanh lên cung Trời (nơi) có viên ngọc như ý, có lắm bông hoa, có nhiều sen trắng.
82. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
83. Do điều ấy, tôi là vị Thiên nhân có hào quang không bị vẩn đục sáng chói vượt trội. Do điều ấy mà khắp các phương đều chói sáng nhờ vào tất cả các phần thân thể của tôi.
84. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Cây Đèn.
85. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
86. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
87. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
88. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
89. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.
90. Sau khi đi đến gần, được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng cúng vật thí, với hạt mè là vật cúng dường, không có dự tính trước, đến đức Phật, bậc xứng đáng cúng dường.
91. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
92. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của sự Cúng Dường Hạt Mè.
93. “Những chim cò, chim công, chim thiên nga, và những con chim cu có giọng hót dễ thương thuộc cõi Trời bay quanh quẩn ở cung điện đáng yêu này, nơi được rải rắc bông hoa, được tô điểm nhiều màu sắc, được lai vãng bởi nhiều tiên nam tiên nữ.
94. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, nàng ngụ ở nơi ấy, đang biến hóa thần thông thành ra nhiều dáng vóc. Và nàng có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển ở xung quanh.
95. Hỡi cô nàng có đại oai lực, nàng đã đạt được thần thông của chư Thiên. Khi là con người nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”
96. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
97. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người vợ chung thủy, không tơ tưởng người khác. Giống như người mẹ đang bảo vệ đứa con trai, mặc dầu giận dữ tôi cũng đã không nói lời thô lỗ.
98. Vững trú ở sự chân thật, từ bỏ lời dối trá, ưa thích việc bố thí, có bản tính nhân hậu, có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
99. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
100. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Vợ Chung Thủy.
101. “Hỡi nàng tiên có đại oai lực, sau khi bước lên cung điện có cây cột bằng ngọc bích, đáng yêu, rực rỡ, được tô điểm nhiều màu sắc, nàng ngụ ở nơi ấy, đang biến hóa thần thông cao thấp đa dạng. Và nàng có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển ở xung quanh.
102. Hỡi nàng có đại oai lực, nàng đã đạt được thần thông của chư Thiên. Khi là con người nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”
103. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
104. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, tôi đã là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn. Tôi đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.
105. Không có việc uống chất say, và tôi đã không nói lời dối trá, tôi đã được vui thích chỉ với người chồng của mình. Có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
106. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
107. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Vợ Chung Thủy thứ nhì.
108. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
109. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
110. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
111. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
112. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người con dâu ở trong nhà của cha chồng. Tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.
113. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng bánh bột đến vị ấy. Sau khi dâng cúng một nửa phần chia (đã nhận được), tôi vui hưởng ở khu vườn Nandana (thuộc cõi Trời).
114. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
115. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Con Dâu.
116. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
117. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
118. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
119. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
120. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người con dâu ở trong nhà của cha chồng. Tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.
121. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng phần chia (đã nhận được) đến vị ấy. Sau khi dâng cúng miếng bánh kem, tôi vui hưởng ở khu vườn Nandana
(thuộc cõi Trời).
122. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
123. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Con Dâu thứ nhì.
124. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
125. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
126. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
127. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
128. “Tôi không có ganh tỵ, bỏn xẻn, hằn học trong khi sống ở gia đình, không có giận dữ, có sự tuân theo lệnh của chồng, tôi luôn luôn không xao lãng trong ngày trai giới.
129. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.
130. Tôi đã hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở tòa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.
131. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.
132. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lý Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng.
133. Tôi đây có sự nổi tiếng nhờ vào giới hạnh và danh tiếng của mình. Và tôi đã thành tựu phước báu của mình, được an vui, không tật bệnh.
134. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
135. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.
Và thưa ngài, xin ngài đê đầu đảnh lễ ở bàn chân của đức Thế Tôn với lời nói của tôi rằng: ‘Bạch ngài, nữ cư sĩ tên Uttarā xin đê đầu đảnh lễ ở bàn chân của đức Thế Tôn.’ Thưa ngài điều này quả không kỳ lạ là việc đức Thế Tôn tuyên bố về tôi ở vào quả vị Sa-môn nào đó.” Đức Thế Tôn đã tuyên bố nàng ấy là ở quả vị Bất Lai.
Thiên Cung của Uttarā.
136. “Những con ngựa của nàng đã được thắng vào, đã được trang hoàng tuyệt vời, có khuôn mặt hướng xuống dưới, di chuyển ở không trung, có sức mạnh, có tốc lực, và năm trăm cỗ xe đã được nàng hóa hiện ra. Những con ngựa, được đốc thúc bởi những người đánh xe, theo sau nàng.
137. Nàng, đã được điểm trang, đứng ở chiếc xe cao quý, đang chói sáng như vì sao, đang rực cháy như ngọn lửa. Hỡi cô nàng có thân hình cao quý, có dáng vóc tuyệt vời, ta hỏi nàng, từ tập thể nào nàng đã đi đến với đấng Cao Quý Nổi Bật?”
138. “Người ta đã nói loại chư Thiên vui thích trong việc biến hóa thế này thế nọ là hạng cao nhất trong số chư Thiên đã đạt được tột đỉnh về dục lạc. Từ tập thể ấy, là tiên nữ có được dáng vóc theo như ý muốn, tôi đã đi đến nơi đây để lễ bái đấng Cao Quý Nổi Bật.”
139. “Trước đây, nàng đã hành thiện hạnh gì ở nơi này? Do điều gì nàng có danh tiếng vô lượng, được nuôi dưỡng trong hạnh phúc, và thần thông của nàng là cao quý nổi bật, có sự di chuyển ở không trung, và màu da của nàng chói sáng mười phương?
140. Nàng được chư Thiên vây quanh và tôn trọng. Hỡi nàng tiên, từ nơi đâu nàng đã chết đi, rồi đã đi đến chốn an vui? Hay là nàng đã thực hành theo lời chỉ dạy của vị nào? Nếu nàng đã là đệ tử của đức Phật, xin nàng hãy nói rõ cho ta.”
141. “Ở thành phố cao quý khéo được xây dựng nơi thung lũng, tôi đã là người thị tỳ của vị vua cao quý có sự vinh quang. Tôi đã khéo được học tập đến tột đỉnh về múa, về hát. Ở Rājagaha người ta đã biết đến tôi là Sirimā.
142. Và đức Phật, vị chúa của các ẩn sĩ, bậc Hướng Đạo đã thuyết giảng cho tôi về Tập Đế, về Khổ Đế, về tính chất vô thường, về sự không tạo tác, về sự Diệt Tận của Khổ, về tính chất trường cửu, và về Đạo Lộ không cong quẹo, thẳng tắp, tốt lành này.
143. Sau khi lắng nghe về Đạo Lộ Bất Tử, về sự không tạo tác, về Giáo Pháp cao quý nổi bật của đức Như Lai, tôi đã tuyệt đối khéo léo thu thúc trong các giới, được vững vàng trong Giáo Pháp đã được thuyết giảng bởi đức Phật cao quý của loài người.
144. Sau khi tôi biết được vị thế Vô Nhiễm, không tạo tác, đã được thuyết giảng bởi đức Như Lai, đấng Cao Quý tối thượng, ngay vào thời điểm ấy tôi đã chạm đến tầng định của thiền chỉ tịnh. Chính tôi đây đã có được bản thể vững bền tối thượng.
145. Sau khi đạt được sự Bất Tử cao quý đặc biệt, sau khi đã xác định về sự lãnh hội, tôi đã chắc chắn, không còn hoài nghi, được nhiều người tôn vinh. Tôi thọ hưởng sự vui thích khoái lạc không phải là ít.
146. Như vậy, tôi là vị Thiên nhân thấy được Bất Tử, là nữ Thinh Văn của đức Như Lai, đấng Cao Quý Nổi Bật. Tôi đã thấy được Pháp, đã được thiết lập ở quả vị thứ nhất, là vị Nhập Lưu, và hơn nữa không còn khổ cảnh đối với tôi.
147. Với sự tôn kính đối với đấng Pháp Vương vinh quang, tôi đây đã đi đến để đảnh lễ đấng Cao Quý Tối Thượng và để lễ bái các vị tỳ khưu, những vị vui thích thiện pháp, tạo nên niềm tin, tập hợp tốt lành của các Sa-môn.
148. Sau khi nhìn thấy bậc Hiền Trí, đức Như Lai, đấng Điều Ngự Trượng Phu cao quý, vị cắt đứt tham ái, bậc vui thích thiện pháp, đấng Hướng Đạo, tôi được hài lòng, có tâm ý hoan hỷ. Tôi đảnh lễ bậc có lòng thương tưởng đến điều lợi ích tối thượng (cho tất cả chúng sanh).”
Thiên Cung của Sirimā.
149. “Thiên cung này đáng yêu, rực rỡ, có cây cột bằng ngọc bích, được trường tồn, khéo được hóa hiện ra, được che xung quanh với những cây cối bằng vàng, là trú xứ của ta, có nguồn gốc là quả thành tựu của nghiệp.
150. Những tiên nữ đến trước này, những Thiên nhân tiền bối, đã được sanh lên ở đây có hàng trăm ngàn. Nhờ vào nghiệp của mình, nàng đã đạt đến. Có được danh tiếng, nàng đứng, trong khi đang chói sáng.
151. Giống như mặt trăng chói sáng, vượt trội quần thể các tinh tú, tựa như vị vua của các vì sao, tương tự y như thế trong lúc tỏa sáng rực rỡ tập thể tiên nữ này, nàng chói sáng nhờ vào danh tiếng.
152. Hỡi cô nàng có dáng vóc tuyệt vời, từ nơi đâu nàng đã đi đến, rồi được sanh lên ở cung điện này của ta? Như thể ngắm nhìn đấng Tạo Hóa, tất cả Chư Thiên cõi Trời Ba Mươi (Ba) có cả Thần Inda không mệt nhọc với việc ngắm nhìn nàng.”
153. “Thưa (Thiên Chủ) Sakka, ngài ân cần hỏi tôi điều này: ‘Từ nơi đâu nàng đã chết đi, rồi đã đi đến nơi đây?’ - Có thành phố của xứ Kāsī tên là Bārāṇasī, tại nơi ấy, trước đây tôi đã là Kesakārikā.
154. Có tâm tịnh tín đối với Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, tôi đã đi đến sự dứt khoát, không còn hoài nghi, có các điều học không sứt mẻ, đã đạt đến Quả vị, đã được vững chắc ở trong Giáo Pháp của đấng Toàn Giác, và không bệnh tật.”
155. “Hỡi nàng tiên có tâm tịnh tín đối với Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, đã đi đến sự dứt khoát, không còn hoài nghi, có các điều học không sứt mẻ, đã đạt đến Quả vị, đã được vững chắc ở trong Giáo Pháp của đấng Toàn Giác, và không bệnh tật, chúng tôi vui mừng về việc đi đến tốt đẹp ấy của nàng. Và thông qua Giáo Pháp, nàng chói sáng nhờ vào danh tiếng.”
Thiên Cung của Kesakārī.
Phẩm Chiếc Ghế là thứ nhất.
*****
Tóm Lược Phẩm Này
Năm (chuyện) chiếc ghế, ba (chuyện) chiếc thuyền, hai (chuyện) cây đèn và vật cúng dường hạt mè, hai người vợ, hai con dâu, (chuyện) Uttarā, Sirimā, và Kesakārikā; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.
--ooOoo--
156. “Cũng tựa như Sakka Chúa của chư Thiên, nàng dẫn đầu đám phụ nữ đi dạo xung quanh ở khu vườn Cittalatā đáng yêu, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, giống như ngôi sao osadhī.
157. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
158. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
159. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
160. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người nữ tỳ, kẻ hầu hạ những người khác trong gia đình. Là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng, tôi đây đã có sự nỗ lực theo lời dạy của vị như thế ấy.
161. Hãy để cho thân thể này bị rã tan theo ý định, chớ không bao giờ có sự lơi lỏng ở đây. Con đường của năm điều học là có sự tốt lành, an toàn.
162. (Là con đường) không gai góc, không chằng chịt, thẳng tắp, đã được chỉ ra bởi các bậc đức hạnh. Hãy nhìn xem kết quả của sự nỗ lực qua sự việc mà cô gái đã đạt được:
163. Tôi là ái hậu của Thiên Vương Sakka có sự nắm giữ quyền uy. Có sáu mươi ngàn nhạc cụ làm công việc tiêu khiển cho tôi.
164. (Các nhạc công nam) Ālamba, Gaggara, Bhīma, Sādhuvādī, Saṃsaya, Pokkhara, và Suphassa, còn các tiên nữ là Vīṇā, Mokkhā, ...
165. ... Nandā, luôn cả Sunandā, Soṇadinnā, Sucimhitā, Alambusā, Missakesī, và cô tiên dữ tợn ‘Puṇḍarīkā,’ ...
166. ... Eṇiphassā, và Suphassā, Subhaddā, và Muduvādinī, các cô này và các cô khác là những người làm công việc tiêu khiển giỏi hơn hết trong số các Thiên nhân.
167. Vào thời điểm thích hợp, các Thiên nhân tự nguyện đi đến thưa rằng: ‘Nào, hãy để chúng tôi múa, hãy để chúng tôi ca. Nào, hãy để chúng tôi làm cho nàng thích thú.’
168. (Khu vườn) Nandana không sầu muộn đáng yêu này, khu vườn lớn ở cõi Ba Mươi (Ba), là không dành cho những người không làm phước thiện, nơi này chỉ dành cho những người đã làm phước thiện.
169. Không có sự an lạc cho những người không làm phước thiện ở nơi này và nơi khác; nhưng có sự an lạc cho những người đã làm phước thiện ở chính nơi này và nơi khác nữa.
170. Đối với những người mong mỏi sự cộng trú ấy thì nên làm nhiều việc tốt lành, bởi vì những người đã làm phước thiện là những người thành tựu tài sản, được vui sướng ở cõi Trời.”
Thiên Cung của Người Nữ Tỳ.
171. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
172. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
173. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
174. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
175. “‘Ra khỏi cửa thành Kevaṭṭa, đã là chỗ trú ngụ của tôi. Trong khi các bậc Thinh Văn, các vị đại ẩn sĩ, du hành ở nơi ấy, ...
176. ... tôi đã bố thí cơm, bánh kem, rau tươi, cháo chua mặn, với tâm ý thanh tịnh ở những con người chính trực.
177. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.
178. Tôi đã hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở tòa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.
179. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.
180. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lý Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng.
181. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
182. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.’
Và thưa ngài, xin ngài đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của đức Thế Tôn với lời nói của tôi rằng: ‘Bạch ngài, nữ cư sĩ tên Lakhumā xin đê đầu đảnh lễ ở bàn chân của đức Thế Tôn.’ Thưa ngài điều này quả không kỳ lạ là việc đức Thế Tôn tuyên bố về tôi ở vào quả vị Sa-môn nào đó.” Đức Thế Tôn đã tuyên bố nàng ấy là ở quả vị Nhất Lai.
Thiên Cung của Lakhumā.
183. “Khi ngài đang đi khất thực, trong khi đang đứng với trạng thái im lặng, có người đàn bà nghèo khổ, khốn cùng, sống nương tựa ở nhà của người khác.
184. Được tịnh tín, nàng đã tự tay dâng đến ngài bọt nước cơm. Nàng ấy, sau khi từ bỏ thân xác loài người, đã đi đến phương trời nào?”
185. “Khi tôi đang đi khất thực, trong khi đang đứng với trạng thái im lặng, có người đàn bà nghèo khổ, khốn cùng, sống nương tựa ở nhà của người khác.
186. Được tịnh tín, nàng đã tự tay dâng đến tôi bọt nước cơm. Nàng ấy, sau khi từ bỏ thân xác loài người, đã chết từ nơi đây, đã được giải thoát.
187. Có hạng chư Thiên tên gọi Hóa Lạc có đại thần lực, người đàn bà ấy, người nữ bố thí bọt nước cơm, được an lạc, vui sướng ở nơi ấy.”
188. “Ôi, sự bố thí của người nữ khốn cùng đã khéo được thiết lập ở ngài Kassapa. Sự cúng dường với vật thí nhận được từ người khác quả nhiên đã được thành tựu.
189. Người phụ nữ nào xinh đẹp ở mọi phần thân thể, được xem là quý giá đối với chồng, có thể được lập làm chánh hậu của đức vua Chuyển Luân, (vẫn) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự bố thí bọt nước cơm ấy.
190. Một trăm tiền vàng, một trăm con ngựa, một trăm xe lừa kéo, một trăm ngàn thiếu nữ có các bông hoa tai bằng ngọc ma-ni đã được trau chuốt, (vẫn) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự bố thí bọt nước cơm ấy.
191. Một trăm con long tượng thuộc vùng núi Hi-mã-lạp, có các ngà như càng xe, vạm vỡ, là loài voi mātaṅga có áo giáp bằng vàng, có yên cương bằng vàng, (vẫn) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự bố thí bọt nước cơm ấy.
192. Ở đây, người nào có thể hành xử vương quyền đối với cả bốn châu lục cũng không giá trị bằng một phần mười sáu của sự bố thí bọt nước cơm ấy.”
Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Bọt Nước Cơm.
193. “Này bà lão dòng hạ tiện, bà hãy đảnh lễ các bàn chân của đức Gotama có danh tiếng. Bậc Ẩn Sĩ tối thượng đã đứng lại vì lòng thương tưởng dành cho chính bà.
194. Bà hãy khởi tâm tịnh tín ở bậc A-la-hán như thế ấy. Hãy mau chắp tay lại đảnh lễ, mạng sống của bà là ngắn ngủi.”
195. Được khuyến khích bởi vị có bản thân đã được tu tập đang mang thân mạng cuối cùng, bà lão dòng hạ tiện đã đảnh lễ các bàn chân của đức Gotama có danh tiếng.
196. Có con bò cái đã húc chết bà lão dòng hạ tiện ấy đấy, trong khi bà đứng chắp tay, đang lễ bái đấng Toàn Giác, bậc tạo ra ánh sáng ở bóng tối.
197. “Thưa bậc anh hùng có đại oai lực, tôi đã đạt được thần lực của chư Thiên, tôi đi đến và đảnh lễ ngài, bậc có lậu hoặc đã được cạn kiệt, có bụi bặm đã được xa lìa, không còn dục vọng, đã ngồi cô độc một mình ở khu rừng.”
198. “Nàng có sắc của vàng, rực sáng, có danh tiếng lớn lao, được tô điểm nhiều màu sắc, được tháp tùng bởi đoàn tiên nữ, đã hạ xuống từ Thiên cung, hỡi nàng tiên xinh đẹp, nàng là ai mà đảnh lễ ta?”
199. “Thưa ngài đại đức, tôi là người nữ dòng hạ tiện đã được khích lệ bởi ngài, bởi vị anh hùng. Tôi đã đảnh lễ các bàn chân của bậc A-la-hán Gotama có danh tiếng.
200. Tôi đây, sau khi đảnh lễ các bàn chân, đã từ trần khỏi dòng dõi hạ tiện, tôi được tái sanh ở Thiên cung tốt đẹp về mọi phương diện, ở (khu vườn) Nandana.
201. Một trăm ngàn tiên nữ đứng tháp tùng. Trong số họ, tôi là người quý cao, hạng nhất về sắc đẹp, về danh tiếng, về tuổi thọ.
202. Thưa ngài, với nhiều việc tốt đẹp đã làm, có sự nhận biết rõ, có niệm, tôi đi đến để đảnh lễ ngài, bậc hiền trí, có lòng bi mẫn ở thế gian.”
203. Sau khi nói xong điều ấy, người nữ dòng hạ tiện, có sự biết ơn, có sự nhận biết việc đã làm, đã đảnh lễ các bàn chân của vị A-la-hán, rồi đã biến mất ngay tại chỗ ấy.
Thiên Cung của Người Nữ Dòng Hạ Tiện.
204-205. “Này người nữ thông minh tuyệt vời, nàng đội ở trên đầu vòng hoa gồm nhiều bông hoa của cây mandārava; những cây này không có ở các tập thể (chư Thiên) khác. Chúng được bao bọc bởi các tua nhụy gồm nhiều màu sắc đậm nhạt (khác nhau): màu xanh, màu vàng, màu đen, và màu đỏ tía, rồi màu đỏ tươi.
206. Này cô nàng có danh tiếng, do việc (phước thiện) nào mà nàng đã được sanh lên cõi Trời Ba Mươi Ba? Này nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
207. “Người ta đã biết về con là ‘Bhadditthī,’ nữ cư sĩ ở thành Kimbilā, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.
208. Con đã bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ý thanh tịnh ở những con người chính trực.
209. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám yếu tố (tám giới).
210. Con đã hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Con cư ngụ ở tòa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.
211. Con kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.
212. Con được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lý Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng.
213. Và con đã dâng vật thực đến các tỳ khưu, những vị có lòng thương tưởng đến điều lợi ích tối thượng, đến hai vị đại hiền trí khổ hạnh (Sāriputta và Moggallāna). Có sự an trú đã được tạo lập, có việc thiện đã được thực hiện, đã chết từ nơi ấy, con lang thang đến (khu vườn) Nandana, có hào quang của chính mình.
214. Con đã thường xuyên hành trì ngày trai giới gồm tám yếu tố đem lại sự an lạc vô lượng. Có sự an trú đã được tạo lập, có việc thiện đã được thực hiện, đã chết từ nơi ấy, con lang thang đến (khu vườn) Nandana, có hào quang của chính mình.”
Thiên Cung của Bhadditthī.
215. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
216. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
217. Hỡi nàng tiên, do điều gì mà nàng có hào quang không bị vẩn đục sáng chói vượt trội? Do điều gì mà khắp các phương đều chói sáng nhờ vào tất cả các phần thân thể của nàng?
218. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
219. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
220. “Người ta đã biết về tôi là ‘Soṇadinnā,’ nữ cư sĩ ở thành Nālandā, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.
221. Tôi đã bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ý thanh tịnh ở những con người chính trực.
222. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.
223. Tôi đã hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở tòa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.
224. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.
225. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lý Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng.
226. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
227. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Soṇadinnā.
228. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
229. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
230. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
231. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
232. “Người ta đã biết về tôi là ‘Uposathā,’ nữ cư sĩ ở thành Sāketā, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.
233. Tôi đã bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ý thanh tịnh ở những con người chính trực.
234. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.
235. Tôi đã hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở tòa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.
236. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.
237. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lý Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng.
238. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
239. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
240. “Sau khi liên tục nghe về khu vườn Nandana, niềm ước muốn đã sanh khởi ở tôi. Sau khi lập nguyện ở tâm về chốn ấy, tôi đã được sanh lên ở Nandana.
241. Tôi đã không thực hành lời dạy của bậc Đạo Sư, đức Phật, đấng thân quyến của mặt trời. Sau khi lập nguyện ở tâm về điều thấp thỏi, tôi đây sau này bị ân hận.”
242. “Này Uposathā, nàng sẽ sống ở nơi đây trong bao lâu? Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, xin nàng hãy nói nếu nàng biết về tuổi thọ.”
243. “Thưa bậc đại hiền trí, sau khi tồn tại ở đây thời gian ba koṭi1 và sáu chục ngàn năm, tôi sẽ chết từ nơi đây và đi đến cộng trú với loài người.”
244. “Này Uposathā, nàng chớ sợ hãi. Nàng cũng đã được đấng Toàn Giác tuyên bố là vị Nhập Lưu, cảnh giới khổ đau của nàng đã được dứt bỏ.”
Thiên Cung của Uposathā.
245. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
246. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
247. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
248. “Người ta đã biết về tôi là ‘Saddhā,’ nữ cư sĩ ở thành Rājagaha, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.
249. Tôi đã bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ý thanh tịnh ở những con người chính trực.
250. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám yếu tố (tám giới).
251. Tôi đã hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở tòa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.
252. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.
253. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lý Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng.
254. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
255. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Saddhā.
257. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
258. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
259. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
260. “Người ta đã biết về tôi là ‘Sunandā,’ nữ cư sĩ ở thành Rājagaha, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.
261. Tôi đã bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ý thanh tịnh ở những con người chính trực.
262. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám yếu tố (tám giới).
263. Tôi đã hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở tòa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.
264. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.
265. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lý Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng.
266. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
267. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Sunandā.
269. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
270. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
271. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
272. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng vật thực đến Ngài.
273. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
274. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Vật Thực.
276. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
277. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
278. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
--ooOoo--
279. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
280. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng vật thực đến vị ấy.
281. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
282. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Vật Thực thứ nhì.
Phẩm Cittalatā là thứ nhì.
*****
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
(Chuyện) người nữ tỳ, và luôn cả Lakhumā, rồi người nữ bố thí bọt nước cơm, người nữ dòng hạ tiện, Bhadditthī, và luôn cả Soṇadinnā, Uposathā, Nandā, luôn cả Sunandā, và hai người nữ bố thí vật thực; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.
--ooOoo--
283. “Danh tiếng và màu da cao sang của nàng chói sáng khắp các phương. Các nữ nhân và các Thiên tử, đã được trang điểm, nhảy múa ca hát.
284. Hỡi nàng tiên, do tôn vinh nàng mà họ làm cho nàng được vui và tháp tùng nàng. Hỡi cô nàng có dáng vóc xinh xắn, những Thiên cung bằng vàng này là thuộc về nàng.
285. Nàng là nữ chủ nhân của chúng, nàng có được sự thành tựu tất cả các dục lạc, nàng đã được sanh ra tốt đẹp, nàng là vĩ đại, nàng vui thích ở tập thể chư Thiên. Này nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?
286. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
287. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, tôi hỏi nàng, ở thế giới loài người nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”
288. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
289. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, tôi đã là con dâu ở gia đình có giới hạnh xấu xa. Tôi ở giữa những người không có đức tin, bỏn xẻn.
290. Được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ, tôi đã dâng chiếc bánh bột chiên đến vị đang đi khất thực.
291. Rồi tôi đã thuật lại với mẹ chồng rằng: ‘Có vị Sa-môn đã đi đến đây. Được tịnh tín, con đã tự tay dâng chiếc bánh bột đến vị ấy.’
292. Như thế, người mẹ chồng đã mắng chửi rằng: ‘Cô là con dâu không được dạy dỗ. Cô đã không muốn xin phép tôi là: Con muốn dâng đến vị Samôn.’
293. Do đó, bị nổi giận, mẹ chồng của tôi đã đánh tôi bằng cái chày. Bà đã làm gãy xương bả vai, đã làm tôi bị thương; tôi đã không thể sống lâu.
294. Tôi đây, do sự tan rã của thân xác, đã chết từ nơi ấy, đã được giải thoát; tôi đã được sanh lên cộng trú với chư Thiên cõi Ba Mươi Ba.
295. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
296. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Cao Sang.
297. “Sau khi làm chói sáng trái đất luôn cả chư Thiên, nàng sáng chói vượt trội, tựa như mặt trăng và mặt trời, với sự vinh quang, với sắc đẹp, với danh tiếng, và với quyền uy, tựa như vị Đại Phạm Thiên sáng chói vượt trội chư Thiên và thần Inda ở cõi Ba Mươi (Ba).
298. Hỡi cô nàng có mang tràng hoa sen xanh, có vòng hoa đội đầu, có làn da như là vàng, đã được trang điểm, có sự trang phục với loại vải thượng hạng, ta hỏi nàng: Hỡi nàng tiên xinh đẹp, nàng là ai mà đảnh lễ ta?
299. Trước đây, nàng đã tự mình tạo nghiệp gì, khi là con người ở kiếp sống trước đây, là việc bố thí đã khéo được thực hiện hay sự thu thúc giới hạnh? Này cô nàng có danh tiếng, do việc (phước thiện) nào mà nàng đã được sanh lên chốn an vui? Này nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
300. “Thưa ngài, mới đây, ở chính ngôi làng này, ngài đã đi đến căn nhà của chúng tôi để khất thực. Do đó, có tâm tịnh tín, tôi đã dâng ngài khúc mía với niềm vui không gì sánh bằng.
301. Và sau đó, mẹ chồng chất vấn tôi rằng: ‘Này cô dâu, cô đã ném bỏ khúc mía ở chỗ nào?’ ‘Con đã không quăng bỏ, hơn nữa con cũng không có ăn, con đã đích thân dâng đến vị tỳ khưu an tịnh.’
302. ‘Quyền hành này là thuộc về cô hay thuộc về tôi?’ Người mẹ chồng đã mắng chửi tôi như thế, rồi đã cầm lấy chiếc ghế và phang cho tôi cú đánh. Đã chết từ nơi ấy, tôi đã qua đời, trở thành vị Thiên nhân.
303. Chính nghiệp thiện ấy đã được tạo ra bởi tôi. Và tôi thụ hưởng hạnh phúc, quả báu về nghiệp của mình. Tôi tiêu khiển cùng với chư Thiên, tôi vui sướng với năm loại dục.
304. Chính nghiệp thiện ấy đã được tạo ra bởi tôi. Và tôi thụ hưởng hạnh phúc, quả báu về nghiệp của mình. Được hộ trì bởi vị Chúa của chư Thiên, được bảo vệ bởi chư Thiên ở cõi Ba Mươi (Ba), tôi được cung ứng với năm loại dục.
305. Quả phước thiện như thế ấy không phải là ít, việc cúng dường mía của tôi là có quả thành tựu lớn lao. Tôi tiêu khiển cùng với chư Thiên, tôi vui sướng với năm loại dục.
306. Quả phước thiện như thế ấy không phải là ít, việc cúng dường mía của tôi có sự vinh quang lớn lao. Được hộ trì bởi vị Chúa của chư Thiên, được bảo vệ bởi chư Thiên ở cõi Ba Mươi (Ba), (tôi) tựa như vị Thần Ngàn Mắt ở khu vườn Nandana.
307. Và thưa ngài, sau khi đến gần ngài, vị có lòng thương xót, có sự hiểu biết, tôi đã đảnh lễ và đã hỏi về sức khỏe. Do đó, có tâm tịnh tín, tôi đã dâng ngài khúc mía với niềm vui không gì sánh bằng.”
Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Mía.
308. “Hỡi nàng tiên có đại oai lực, tại chiếc ghế dài hạng nhất được tô điểm với ngọc ma-ni và vàng, ở chỗ nằm cao sang được rải rắc với những bông hoa, nàng ngự ở nơi ấy, đang biến hóa thần thông cao thấp đa dạng.
309. Và nàng có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển ở xung quanh. Hỡi cô nàng có đại oai lực, nàng đã đạt được thần thông của chư Thiên. Khi là con người nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”
310. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là con dâu ở gia đình giàu có. Tôi đã không có giận dữ, có sự tuân theo lệnh của chồng, không xao lãng trong ngày trai giới.
311. Khi là con người, trẻ tuổi, không ác độc, có tâm tịnh tín, tôi đã làm hài lòng người chồng. Có lối cư xử vui vẻ vào ban ngày và ban đêm, tôi đã là người có giữ giới trước đây.
312. Là người đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, không phải kẻ trộm cắp, có thân (nghiệp) hoàn toàn trong sạch, có sự thực hành đức hạnh trong trắng, không có việc uống chất say, và tôi đã không nói lời dối trá, là người có sự thực hành đầy đủ trọn vẹn về các điều học.
313. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng, với tâm ý tịnh tín, có sự thực hành thuận theo Pháp, với tâm ý hoan hỷ, tôi đã hành trì ngày trai giới gồm có tám yếu tố.
314. Và sau khi thọ trì thiện pháp gồm có tám yếu tố cao quý, thánh thiện, đem lại an lạc này, là người nữ yêu kiều, có sự tuân theo lệnh của chồng, tôi đã là nữ Thinh Văn của đấng Thiện Thệ ở thời quá khứ.
315. Sau khi tạo ra nghiệp thiện như thế này ở đời sống, tôi là người nữ có được phần giác ngộ. Do sự tan rã của thân xác, vào kiếp sống kế tiếp, tôi đã đạt được thần thông của chư Thiên, đã đi đến nhàn cảnh.
316. Ở tòa lâu đài nơi Thiên cung cao quý, làm thích ý, tôi được hầu cận bởi đám đông tiên nữ, tôi có ánh sáng tự thân. Tôi đã đi đến cung điện của chư Thiên, là (Thiên nhân) có tuổi thọ; các tập thể chư Thiên khiến cho tôi được vui thích.”
Thiên Cung Chiếc Ghế Dài.
317. Các Thiên nhân Latā, Sajjā, Pavarā, Accimukhī, và Sutā, con gái của đức vua Vessavaṇa, vị vua cao quý, có sự vinh quang, các nàng được nổi bật, chói sáng với những đức hạnh tự nhiên.
318. Và ở đây, năm người nữ này đã đi đến dòng sông tốt lành, có nước mát, có sen xanh để tắm. Ở đó, sau khi các nàng Thiên nhân ấy đã tắm, đã vui đùa, đã nhảy múa, đã ca hát, Sutā đã nói với Latā rằng:
319. “Hỡi cô nàng có mang tràng hoa sen xanh, có vòng hoa đội đầu, có làn da như là vàng, có cặp mắt màu đồng đen, chói sáng tựa như bầu trời, có tuổi thọ, em hỏi chị: Do điều gì mà danh tiếng đã được tạo ra cho chị?
320. Này chị yêu, do điều gì chị được chồng yêu quý hơn hết, được nổi bật và yêu kiều hơn về dáng vóc, được khéo léo về các việc nhảy múa, ca hát, tấu nhạc? Đã được hỏi bởi những (Thiên nhân) nam nữ, mong chị thuật lại cho chúng tôi.”
321. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là con dâu ở gia đình có của cải cao sang. Tôi đã không có giận dữ, có sự tuân theo lệnh của chồng, không xao lãng trong ngày trai giới.
322. Khi là con người, trẻ tuổi, không ác độc, có tâm tịnh tín, tôi đã làm hài lòng người chồng, luôn cả em chồng, tôi đã làm hài lòng cha mẹ chồng, luôn cả tôi tớ. Ở nơi ấy, danh tiếng đã được tạo ra cho tôi.
323. Với nghiệp thiện ấy, tôi đây đã đạt đến trạng thái đặc biệt ở bốn lãnh vực: tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, và sức mạnh. Tôi thọ hưởng sự khoái lạc vui thích không phải là ít.”
324. “Lời Latā này nói có được lắng nghe không vậy? Chị đã giải thích cho chúng ta điều chúng ta đã hỏi. Nghe rằng những người chồng là số phận đặc biệt dành cho những người phụ nữ chúng ta và là các Thiên nhân cao quý đối với những người nữ chúng ta đây.
325. Tất cả chúng ta hãy thực hành phận sự đối với những người chồng, qua đó các phụ nữ trở thành những người vợ chung thủy. Sau khi thực hành phận sự đối với những người chồng, tất cả chúng ta sẽ đạt được điều Latā này nói.
326. Giống như loài sư tử, có khu vực kiếm ăn là đồi núi cao nguyên, sau khi hùng cứ ở ngọn núi là vật nâng đỡ trái đất, sau khi chế ngự rồi giết chết các loài bốn chân khác; có vật thực là thịt sống, nó ăn các loài thú nhỏ.
327. Tương tự y như thế, ở đây các nữ đệ tử của bậc Thánh, có đức tin, sau khi nương tựa chồng, chung thủy với chồng, sau khi đã tiêu diệt sự phẫn nộ và chế ngự sự bỏn xẻn, người nữ ấy, có thực hành Giáo Pháp, vui sướng ở cõi Trời.”
Thiên Cung của Latā.
328. “Tôi đã chỉ dạy (cho đứa học trò) cách trình tấu loại đàn bảy dây có âm thanh ngọt ngào, đáng ưa thích. Gã thách thức tôi ở nơi khán đài. Này Kosiya (Chúa Trời Sakka), ngài hãy là nơi nương tựa của tôi.”
329. “Tôi là nơi nương tựa của ngài, tôi là người tôn vinh thầy giáo. Gã học trò sẽ không thắng ngài. Này thầy giáo, ngài sẽ chiến thắng gã học trò.”
330. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
331. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
332. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
333. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
334. “Người nữ bố thí vải vóc loại tốt nhất là cao quý trong số các người nam các người nữ, tương tự như vậy người nữ bố thí hình ảnh đáng yêu, người nữ ấy đi đến và đạt được địa vị thích ý thuộc về cõi Trời.
335. Ngài hãy nhìn xem Thiên cung của tôi đây. Tôi là tiên nữ có được dáng vóc theo ý muốn, tôi là cao quý trong số một ngàn tiên nữ; ngài hãy nhìn xem quả thành tựu của các việc phước thiện.
336. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
337. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
(Và giống như ở đây, nên giải thích chi tiết về tất cả các Thiên cung tương tự như trên).
338-341. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, —(như trên)— và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”
342. “Người nữ bố thí bông hoa loại tốt nhất là cao quý trong số các người nam các người nữ, tương tự như vậy người nữ bố thí hình ảnh đáng yêu, người nữ ấy đi đến và đạt được địa vị thích ý thuộc về cõi Trời.
343. Ngài hãy nhìn xem Thiên cung của tôi đây. Tôi là tiên nữ có được dáng vóc theo ý muốn, tôi là cao quý trong số một ngàn tiên nữ; ngài hãy nhìn xem quả thành tựu của các việc phước thiện.
344-349. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. —(như trên)— và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
350-357. “Người nữ bố thí hương thơm loại tốt nhất là cao quý trong số các người nam các người nữ, —(như trên)—
358-365. “Người nữ bố thí trái cây loại tốt nhất —(như trên)—
366-373. “Người nữ bố thí vị nếm loại tốt nhất —(như trên)—
374-381. “Tôi đã dâng cúng một nhúm vật thơm năm ngón tay ở ngôi bảo tháp của đức Thế Tôn Kassapa. —(như trên)— Ngài hãy nhìn xem Thiên cung của tôi đây. —(như trên)— và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
382-389. “Tôi đã nhìn thấy các vị tỳ khưu và tỳ khưu ni đang đi dọc theo đường lộ. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp ở các vị ấy, tôi đã hành trì một ngày trai giới. Ngài hãy nhìn xem Thiên cung của tôi đây. —(như trên)— và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
390-397. “Đứng ở trong nước, với tâm tịnh tín tôi đã dâng cúng nước đến vị tỳ khưu. Ngài hãy nhìn xem Thiên cung của tôi đây. —(như trên)— và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
398-405. “Tôi đã hầu hạ mẹ chồng và cha chồng hung tợn, giận dữ, và thô lỗ. Tôi không đố kỵ, không xao lãng về giới hạnh của mình. —(như trên)—
406-413. “Tôi đã là người làm công việc cho những người khác, là nữ tỳ không lười biếng đối với mục đích, là người không có giận dữ, không có ngã mạn, có sự san sẻ phần thọ lãnh của mình. —(như trên)—
414-421. Tôi đã dâng cúng cơm sữa đến vị tỳ khưu đang đi khất thực. Sau khi thực hiện việc làm như vậy, sau khi được sanh về nhàn cảnh, tôi vui sướng —(như trên)—
422. Tôi đã dâng cúng mật đường —(như trên)—
430. Tôi đã dâng cúng khúc mía —(như trên)— 438. Tôi đã dâng cúng trái cây timbaru —(như trên)—
446. Tôi đã dâng cúng dưa hấu —(như trên)—
454. Tôi đã dâng cúng dưa leo —(như trên)—
462. Tôi đã dâng cúng trái của giống dây leo —(như trên)—
470. Tôi đã dâng cúng bông hoa phārusaka —(như trên)—
478. Tôi đã dâng cúng cái chậu đốt than —(như trên)—
486. Tôi đã dâng cúng nắm củ sen —(như trên)—
494. Tôi đã dâng cúng nắm bông hoa loại nhỏ —(như trên)—
502. Tôi đã dâng cúng củ cải —(như trên)— 510. Tôi đã dâng cúng nắm hạt nimba —(như trên)—
518. Tôi đã dâng cúng cháo xoài —(như trên)— 526. Tôi đã dâng cúng bánh dầu hạt mè —(như trên)—
534. Tôi đã dâng cúng dây buộc thân —(như trên)— 542. Tôi đã dâng cúng quai túi mang vai —(như trên)—
550. Tôi đã dâng cúng vải băng bó —(như trên)— 558. Tôi đã dâng cúng cây quạt vuông —(như trên)— 566. Tôi đã dâng cúng cây quạt (tròn) lá cọ —(như trên)— 574. Tôi đã dâng cúng quạt đuổi ruồi bằng lông công —(như trên)—
582. Tôi đã dâng cúng cây lọng che —(như trên)—
590. Tôi đã dâng cúng dép —(như trên)— 598. Tôi đã dâng cúng bánh bột —(như trên)—
606. Tôi đã dâng cúng thịt vò viên —(như trên)—
610. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
611. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
612. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
613. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
614. Tôi đã dâng cúng bánh ngọt đến vị tỳ khưu đang đi khất thực. Sau khi thực hiện việc làm như vậy, sau khi được sanh về nhàn cảnh, tôi vui sướng.
615. Ngài hãy nhìn xem Thiên cung của tôi đây. Tôi là tiên nữ có được dáng vóc theo ý muốn, tôi là cao quý trong số một ngàn tiên nữ; ngài hãy nhìn xem quả thành tựu của các việc phước thiện.
616. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
617. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.
618. Quả thật, việc đi đến tốt đẹp đã có cho tôi, hôm nay là vô cùng xán lạn, được vươn lên tốt đẹp, bởi vì tôi đã nhìn thấy các vị Thiên nhân, các tiên nữ có được dáng vóc theo ý muốn.
619. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp ở những người này, tôi sẽ thực hiện nhiều việc lành. Nhờ vào việc bố thí, nhờ vào việc hành thiện, nhờ vào việc thu thúc, nhờ vào việc rèn luyện, tôi đây sẽ đi đến nơi ấy, là nơi không sầu muộn sau khi đi đến.”
Thiên Cung của Guttila.
620. “Này cô nàng có danh tiếng, trong lúc tỏa sáng rực rỡ nhờ vào làn da và danh tiếng, nàng sáng chói vượt trội tất cả chư Thiên ở cõi Trời Ba Mươi Ba về phương diện sắc đẹp.
621. Tôi không biết rõ về việc gặp gỡ (trong quá khứ); đây là lần gặp gỡ đầu tiên. Từ tập thể nào nàng đã đi đến? Nàng hãy chuyện trò với tôi theo tên gọi (Bhaddā).”
622. “Này Bhaddā, trong thời quá khứ ở cảnh giới loài người, tôi đã là Subhaddā. Tôi đã là em gái, và là người vợ có chung chồng với chị.
623. Tôi đây, do sự tan rã của thân xác, đã chết từ nơi ấy, đã được giải thoát; tôi đã được sanh lên cộng trú với chư Thiên cõi Hóa Lạc.”
624. “Các chúng sinh đã tạo được nhiều việc tốt đẹp (có phước báu lớn lao) đi đến với chư Thiên ấy. Này Subhaddā, nàng hãy thuật lại việc sanh ra của bản thân ở nơi chư Thiên ấy.
625. Bằng cách nào, bởi lý do nào, hoặc đã được ai chỉ dạy, do sự bố thí thuộc loại thế nào, với sự thọ trì tốt lành nào mà nàng có được danh tiếng?
626. Nàng đã đạt được danh tiếng như thế này. Nàng đã đạt đến trạng thái đặc biệt, lớn lao. Này nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
627. “Được tịnh tín, trước đây tôi đã tự tay dâng cúng vật bố thí chỉ là tám phần đồ ăn khất thực đến hội chúng xứng đáng được cúng dường.
628. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
629. Thưa vị nữ Thiên nhân có đại oai lực, tôi trình bày cho chị về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
630. “Được tịnh tín, tôi đã tự tay chuẩn bị cơm nước cho các vị tỳ khưu đã được thu thúc, có sự thực hành Phạm hạnh, nhiều hơn so với nàng. Sau khi dâng cúng nhiều hơn nàng, tôi đã đi đến tập thể thấp kém.
631. Sau khi dâng cúng ít hơn tôi, như thế nào mà nàng đã đạt đến trạng thái đặc biệt, lớn lao? Này nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
632. “Trước đây, tôi đã gặp vị tỳ khưu đáng được tôn kính. Tôi đã thỉnh mời vị Revata ấy về bữa thọ trai với bản thân vị ấy là người thứ tám.
633. Quan tâm đến lợi ích của tôi, vị Revata ấy, vì lòng thương tưởng, đã nói với tôi rằng: ‘Hãy dâng cúng ở Hội Chúng;’ tôi đã làm theo lời nói của vị ấy.
634. Việc cúng dường ấy được dâng đến Hội Chúng (sẽ) được thiết lập ở vô lượng; việc bố thí ấy (nếu) được dâng cúng ở các cá nhân thì (sẽ) không có quả báo lớn lao cho chị.”
635. “Ngay giờ đây, tôi biết rằng vật được dâng cúng ở Hội Chúng có quả báo lớn lao. Sau khi đi đến bản thể loài người, tôi đây, với sự ân cần, với sự bỏn xẻn đã được xa lìa, tôi sẽ dâng cúng các vật thí ở Hội Chúng lần này đến lần khác, không bị xao lãng.”
636. “Này Bhaddā, Thiên nhân ấy là ai mà trò chuyện với nàng, và sáng chói vượt trội tất cả chư Thiên ở cõi Trời Ba Mươi Ba về phương diện sắc đẹp?”
637. “Thưa vị Chúa của chư Thiên, trong thời quá khứ khi là con người ở cảnh giới loài người, nàng đã là người vợ có chung chồng với thiếp và còn là người em gái của thiếp. Sau khi dâng cúng các vật thí ở Hội Chúng, nàng chói sáng với phước báu đã tạo.”
638. “Này Bhaddā, người em gái trong thời quá khứ chói sáng hơn nàng bởi lý do nàng ấy đã tạo lập sự cúng dường ở Hội Chúng vô lượng.
639. Bởi vì, ở núi Gijjhakūṭa, ta đã hỏi đức Phật về quả thành tựu của sự san sẻ, về vật được dâng cúng ở nơi nào thì có quả báo lớn lao.
640. Đối với những con người đang hiến cúng, đối với các chúng sinh mong mỏi phước báu đang thực hiện phước thiện có liên quan đến việc tái sanh, vật được dâng cúng ở nơi nào thì có quả báo lớn lao.
641. Đức Phật, biết về quả báo của nghiệp ở từng trường hợp, đã giải thích điều ấy cho ta về quả thành tựu của sự san sẻ, về vật được dâng cúng ở nơi nào thì có quả báo lớn lao.
642. Bốn hạng đã thực hành (bốn Đạo) và bốn hạng đã trụ ở Quả vị (bốn Quả), Hội Chúng ấy có bản thể chính trực, có Giới - Định - Tuệ.
643. Đối với những con người đang hiến cúng, đối với các chúng sinh mong mỏi phước báu đang thực hiện phước thiện có liên quan đến việc tái sanh, vật được dâng cúng ở Hội Chúng thì có quả báo lớn lao.
644. Bởi vì Hội Chúng ấy là bao la, đã đi đến sự vĩ đại. Hội Chúng ấy không thể đo lường, tựa như biển cả, đại dương. Chính những vị này là hạng nhất, là các đệ tử của bậc Anh Hùng trong số các nam nhân, là những đấng quang đăng tuyên thuyết Giáo Pháp.
645. Những người nào dâng cúng vật thí xác định dành cho Hội Chúng, sự bố thí của những người ấy là đã khéo được dâng cúng, khéo được hiến dâng, khéo được hiến cúng. Sự cúng dường ấy, đã đi đến Hội Chúng, đã được tạo lập, có quả báo lớn lao, đã được các đấng Hiểu Biết Thế Gian khen ngợi.
646. Những người nào đi lang thang ở thế gian với niềm vui đã được sanh khởi trong khi nhớ lại sự hiến cúng như thế ấy, (những người ấy) sau khi loại bỏ bợn nhơ của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị quở trách, và đi đến địa vị cõi Trời.”
Thiên Cung Tỏa Sáng Rực Rỡ.
647. “Ta đã nhìn thấy tòa lâu đài vô cùng đáng yêu, được bao phủ bởi những ngọc pha-lê và các màng lưới bằng bạc và vàng, có bề mặt đa dạng và nhiều màu sắc; cung điện xinh đẹp này khéo được hóa hiện ra, có dựng cổng chào, được rải lên với những hạt cát bằng vàng.
648. Và tựa như mặt trời, vật xua tan bóng tối vào mùa thu có ngàn ánh hào quang, chiếu sáng mười phương ở không trung, tương tự như thế cung điện này của nàng sáng chói tựa như ngọn lửa đang cháy rực ở trên đỉnh đám mây vào ban đêm.
649. (Cung điện) này dường như làm lóa mắt, tựa như tia chớp, được tạo lập ở không trung, làm hài lòng. Giống như thành phố của vị thần Inda, cái (cung điện) này của nàng sầm uất, được vang vang tiếng đàn vīṇā, trống con, chập chõa, và chiêng đồng.
650. Có các bông hoa sen hồng, sen trắng, sen xanh, hoa súng, hoa nhài, hoa bandhuka, và hoa anojaka, và có các cây sālā trổ bông, các cây vô ưu nở hoa, (cung điện) này được lan tỏa hương thơm tuyệt vời của nhiều loại cây cối hạng nhất.
651. Này cô nàng có danh tiếng, hồ sen đáng yêu trông tựa như màng lưới ngọc ma-ni đã được hiện ra cho nàng; hồ sen được kết với với các loại cây saḷala, cây bánh mì, cây bhujaka, với những loài dây leo khéo nở rộ hoa được treo lơ lửng từ những cây lá cọ.
652. Và có những loại cây trổ hoa là loại được mọc lên ở trong nước, có những cây cối là loại được sanh ra ở đất liền, thuộc về loài người, không thuộc về phi nhân, và thuộc về cõi Trời; tất cả đều đã được sanh lên ở chỗ trú ngụ của nàng.
653. Quả thành tựu này là do sự thu thúc và rèn luyện nào? Do kết quả của việc làm nào mà nàng đã được sanh ra ở nơi đây? Và như thế nào mà nàng đã được ngự đến cung điện này? Hỡi cô nàng có làn mi quý phái, nàng hãy nói điều ấy theo từng phần một.”
654. “Và như thế nào mà tôi đã được ngự đến cung điện này, (là nơi) được tới lui bởi các bầy chim cò, chim công, chim đa đa, được đông đúc với những con vịt trời và loài thiên nga chúa, được kêu vang bởi các loài chim như là chim kāraṇḍava và chim cu cu.
655. (Cung điện này có) các giống cây bông hoa với tàng cây rộng nhiều loại khác nhau bao gồm cây loa kèn, cây mận đỏ, cây vô ưu. Và như thế nào mà tôi đã được ngự đến cung điện này, thưa ngài, tôi sẽ trình bày với ngài về điều ấy, xin ngài hãy lắng nghe.
656. Thưa ngài, về phía đông của xứ Magadha cao quý có ngôi làng tên Nāḷaka. Ở nơi ấy, trước đây tôi đã là người con dâu. Ở nơi ấy, họ đã biết đến tôi là Sesavatī.
657. Tôi đây, với tâm ý hoan hỷ, đã tung lên những bông hoa đến ngài Upatissa, bậc thiện xảo về mục đích và Giáo Pháp đáng được tôn trọng, vị đã được chư Thiên và nhân loại cúng dường, bậc vĩ đại, không thể đo lường, đã được tịch diệt.
658. Và sau khi cúng dường đến vị đã đạt đến cảnh giới tuyệt đối, bậc ẩn sĩ cao cả, mang thân mạng cuối cùng, tôi đã từ bỏ xác thân nhân loại, được đi đến cõi Ba Mươi (Ba); tại đây tôi cư ngụ nơi (cung điện) này.”
Thiên Cung của Sesavatī.
659. “Hỡi cô nàng có trang phục màu vàng, có cờ hiệu màu vàng, đã được điểm trang với các vật trang sức màu vàng, với các tấm choàng dễ thương màu vàng, nàng vẫn chói sáng dầu không trang điểm.
660. Nàng là ai, hỡi cô nàng có mang các vòng xuyến bằng vàng, được điểm trang với vòng hoa đội đầu bằng vàng, được che phủ với màng lưới bằng vàng, có tràng hoa gồm nhiều châu ngọc khác loại?
661. (Các tràng hoa) được làm bằng vàng, làm bằng hồng ngọc, làm bằng ngọc trai, và làm bằng ngọc bích, với các viên ngọc mắt mèo và các viên hồng ngọc, được điểm tô với các viên ngọc ma-ni tựa như mắt chim bồ câu.
662. Ở đây (trong số các tràng hoa), cái này có âm điệu êm dịu của chim công, cái khác có âm điệu của chim thiên nga, cái kia có âm điệu êm dịu của chim karavīka; âm điệu của chúng có vẻ dễ thương, được nghe như là nhạc cụ gồm năm loại đã được tấu lên.
663. Và được điểm tô với nhiều châu ngọc khác loại, tựa như đã khéo được phân bố với các phần tử có nhiều kiểu cách khác nhau, cỗ xe đẹp đẽ dễ thương của nàng chói sáng.
664. Đứng ở cỗ xe ấy, trong dáng vẻ của hình tượng bằng vàng, nàng chiếu sáng khoảnh đất này. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
665. “Khi đức Gotama, đấng Vô Lượng, viên tịch Niết Bàn, có tâm tịnh tín, tôi đã cúng dâng tấm màng lưới bằng vàng được tô điểm với các viên ngọc ma-ni và vàng, được kết chuỗi với các viên ngọc trai, được che phủ bởi mạng lưới bằng vàng.
666. Sau khi đã thực hiện việc làm ấy, là việc tốt lành đã được đức Phật khen ngợi, với nỗi sầu muộn đã được xa lìa, được an vui, tôi khởi tâm hân hoan, không có tật bệnh.”
Thiên Cung của Mallikā.
667. “Này cô nàng có cặp mắt to, thật sự nàng là ai mà dẫn đầu đám phụ nữ đi dạo xung quanh ở khu vườn Cittalatā đáng yêu?
668. Lúc chư Thiên cõi Ba Mươi Ba tiến vào khu vườn này, toàn thể bọn họ cùng với loài thú kéo, cùng với cỗ xe, đều trở nên có màu sắc khác biệt khi đã đi đến nơi này.
669. Còn đối với nàng, khi đã đạt đến nơi đây, trong khi đang đi lang thang ở vườn hoa, sự đổi khác về màu sắc không nhìn thấy ở cơ thể (của nàng); bởi điều gì mà nàng có được dáng vẻ như thế? Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
670. “Thưa vị Chúa của chư Thiên, do nghiệp nào mà tôi có được dáng vóc và tôi có được cảnh giới tái sanh, cùng với thần thông và năng lực, thưa vị Trời Purindada, xin ngài hãy lắng nghe về điều ấy.
671. Tôi là nữ cư sĩ tên Sunandā ở thành Rājagaha đáng yêu, được đầy đủ đức tin và giới hạnh, luôn luôn thích thú việc san sẻ.
672. Tôi đã bố thí y phục, vật thực, chỗ nằm ngồi, đèn đuốc, với tâm ý thanh tịnh ở những con người chính trực.
673. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.
674. Tôi đã hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới. Tôi cư ngụ ở tòa lâu đài, có sự tự kiềm chế, có sự san sẻ.
675. Tôi kiêng chừa việc giết hại mạng sống, và thu thúc về việc nói dối, việc trộm cắp, việc tà hạnh, và xa lánh việc uống chất say.
676. Tôi được vui thích ở năm điều học, là người thông hiểu các Chân Lý Cao Thượng, là nữ cư sĩ của đấng Hữu Nhãn Gotama có danh tiếng.
677. Người nữ tỳ từ gia đình của quyến thuộc thường xuyên mang lại các tràng hoa đến cho tôi đây. Tôi đã cúng dâng toàn bộ tất cả các thứ ấy ở ngôi bảo tháp của đức Thế Tôn.
678. Và vào ngày trai giới, tôi đã đi đến, được tịnh tín, tôi đã tự tay cúng dâng tràng hoa, hương thơm, vật thoa ở ngôi bảo tháp.
679. Thưa vị Chúa của chư Thiên, do nghiệp tôi đã cúng dâng tràng hoa mà tôi có được dáng vóc và tôi có được cảnh giới tái sanh, cùng với thần thông và năng lực.
680. Và về việc tôi đã là người có giới, việc ấy còn chưa được chín muồi. Tuy nhiên, thưa vị Chúa của chư Thiên, tôi có niềm hy vọng là tôi có thể trở thành bậc Nhất Lai.”
Thiên Cung của Visālakkhī.
681. “Nàng khởi tâm hân hoan trong khi vừa kết buộc tràng hoa thuộc cõi Trời với các bông hoa pāricchattaka và koviḷāra xinh xắn, làm thích ý, trong khi vừa ca hát.
682. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các âm thanh thuộc cõi Trời, làm êm tai, làm thích ý, phát ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
683. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các hương thơm thuộc cõi Trời, là các hương thơm tinh khiết, làm thích ý, tỏa ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
684. Trong khi nàng đang xoay tròn cơ thể, tiếng ngân vang của các vật trang sức ở các bím tóc được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
685. Các vòng hoa đeo tai bị gió thổi, bị lay động bởi làn gió, tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
686. Luôn cả những tràng hoa ở trên đầu của nàng là có hương thơm tinh khiết, làm thích ý; giống như cây mañjūsaka, hương thơm (của tràng hoa) thổi đi khắp các phương.
687. Nàng ngửi hương thơm tinh khiết ấy, nàng nhìn thấy hình ảnh không thuộc nhân gian. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
688. “Tôi đã hiến dâng đến đức Phật tràng hoa làm bằng hoa vô ưu, rực rỡ, lấp lánh, được kết hợp với màu sắc và hương thơm.
689. Sau khi đã thực hiện việc làm ấy, là việc tốt lành đã được đức Phật khen ngợi, với nỗi sầu muộn đã được xa lìa, được an vui, tôi khởi tâm hoan hỷ, không có tật bệnh.”
Thiên Cung Pāricchattaka.
Phẩm Pāricchattaka là thứ ba.
*****
Tóm Lược Phẩm Này
(Thiên cung) cao sang, (bố thí) mía, ghế dài, (chuyện) Latā, với Guttila, (Thiên cung) tỏa sáng rực rỡ, Sesavatī, Mallikā, Visālakkhī, (Thiên cung) Pāricchattaka; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.
--ooOoo--
690. “Ở Thiên cung màu đỏ tía, được trải cát bằng vàng, nàng vui thích về phần trình tấu khéo léo với năm loại nhạc cụ.
691. Từ Thiên cung đã được hóa hiện ra, làm bằng châu ngọc ấy, nàng đã bước xuống, rồi đã đi sâu vào khu rừng cây sālā được trổ hoa vào mọi thời điểm.
692. Này nàng tiên, tại mỗi một gốc cây sālā mà nàng dừng lại, loài cây cao quý nhất ấy, từng cây một, đều nghiêng xuống và thả rơi các bông hoa.
693. Được lay động bởi gió, được gió thổi, khu rừng cây sālā đã được các loài chim lai vãng; giống như cây mañjūsaka, hương thơm (của khu rừng) thổi đi khắp các phương.
694. Nàng ngửi hương thơm tinh khiết ấy, nàng nhìn thấy hình ảnh không thuộc nhân gian. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
695. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là tỳ nữ ở gia đình của người chồng. Sau khi nhìn thấy đức Phật đang ngồi, tôi đã rải rắc với những bông hoa sālā.
696. Được tịnh tín, tôi đã tự tay hiến dâng đến đức Phật vòng hoa đội đầu làm bằng bông hoa sālā và đã được làm khéo léo.
697. Sau khi đã thực hiện việc làm ấy, là việc tốt lành đã được đức Phật khen ngợi, với nỗi sầu muộn đã được xa lìa, được an vui, tôi khởi tâm hoan hỷ, không có tật bệnh.”
Thiên Cung Màu Đỏ Tía.
698. “Hỡi cô nàng có ánh sáng lấp lánh ở làn da cao quý rực rỡ, có y hạ là tấm vải đã được khéo nhuộm, có đại thần lực, có cơ thể đáng yêu với mùi trầm hương, này nàng tiên xinh đẹp, nàng là ai mà đảnh lễ ta?
699. Và chiếc ghế dài của nàng có giá trị cao, đáng yêu, được điểm tô với nhiều loại châu báu khác nhau. Ngồi ở nơi ấy, nàng chói sáng tựa như vị vua của chư Thiên ở khu vườn Nandana.
700. Này cô nàng hiền thục, trước đây nàng đã thực hành tánh hạnh tốt đẹp gì? Nàng đã thọ hưởng quả thành tựu của nghiệp gì ở thế giới chư Thiên? Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
701. “Thưa ngài, trong khi ngài đang đi khất thực, con đã dâng đến ngài tràng hoa và mật đường. Con thọ hưởng quả thành tựu của nghiệp ấy ở thế giới chư Thiên.
702. Thưa ngài, con có sự bứt rứt; con đã phạm lỗi và đã làm sai trái. Con đây đã không lắng nghe Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng bởi đấng Pháp Vương.
703. Vì thế, con xin thưa với ngài. Thưa ngài đại đức, bất cứ người nào đó được con thương xót đến, xin ngài hãy khuyến khích người ấy về các Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng bởi đấng Pháp Vương.
704. Những vị (Thiên tử) nào có được niềm tin ở ba Ngôi Báu: Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, những vị ấy chói sáng hơn con đây về tuổi thọ, về danh tiếng, và về sự vinh quang.
705. So sánh với con thì chư Thiên khác vượt trội về oai lực và sắc đẹp, hơn hẳn về đại thần lực.”
Thiên Cung Rực Rỡ.
706. “Đã được trang điểm, nàng đã cỡi lên con voi vĩ đại, cao quý, đã khéo được sửa soạn, được chất đống với ngọc ma-ni và vàng, được tô điểm bằng mạng lưới bằng vàng, rồi đã đi đến nơi đây theo đường không trung, ở trên bầu trời.
707. Có những hồ sen với nước trong sạch, khéo nở rộ hoa, đã được hóa hiện ra ở hai ngà của con voi, có những nhóm nhạc cụ được phân hạng ở những đóa sen, và có những phụ nữ quyến rũ này nhảy múa.
708. Hỡi cô nàng có đại oai lực, nàng đã đạt được thần thông của chư Thiên. Khi là con người nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?”
709. “Ở Bārāṇasī, tôi đã đi đến gần và đã dâng hai xấp vải đến đức Phật. Sau khi đảnh lễ hai bàn chân, tôi đã ngồi xuống nền đất. Được phấn chấn, tôi đã chắp tay lại.
710. Và đức Phật, có làn da tựa như vàng, đã thuyết giảng cho tôi về Nhân (của Khổ), về Khổ, về vô thường, về sự không tạo tác, về sự Diệt Khổ có tính chất trường tồn. Ngài đã thuyết giảng về Đạo Lộ, nhờ đó tôi đã nhận thức được.
711. Là người nữ có tuổi thọ ít ỏi, tôi đã qua đời. Đã chết từ nơi ấy, tôi được sanh lên hội chúng cõi Ba Mươi (Ba), có danh tiếng. Tôi đã là người vợ chánh khác nữa của (Thiên Chủ) Sakka, có tên là Yasuttarā, được nổi tiếng ở các phương.”
Thiên Cung Long Tượng.
712. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
713. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
714. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
715. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
716. “Ở Bārāṇasī, được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng đến đức Phật, đấng thân quyến của mặt trời, miếng bánh kem khô khan.
717. Hãy nhìn xem quả báo của miếng bánh kem khô khan, không có muối. Sau khi nhìn thấy nàng Alomā được hạnh phúc, người nào sẽ không làm việc phước thiện?
718. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
719. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Alomā.
720. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
721. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
722. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
723. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
724. “Ở Bārāṇasī, tôi đã dâng đến đức Phật, đấng thân quyến của mặt trời, món cháo chua nấu chung với táo và đã được gia vị với dầu ăn.
725. Với tâm ý thanh tịnh ở con người chính trực, tôi đã dâng cúng (món cháo) đã được trộn với loại tiêu dài, với củ tỏi, và với (rễ cỏ) lāmañjaka.
726. Người phụ nữ nào hành xử vị thế chánh hậu của đức vua Chuyển Luân, có vẻ kiều diễm ở toàn bộ các phần cơ thể, và được xem là hoàn hảo đối với người chồng, (cũng) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự dâng cúng cháo chua này.
727. Một trăm con voi, một trăm con ngựa, một trăm xe lừa kéo, một trăm ngàn thiếu nữ có các bông hoa tai bằng ngọc ma-ni đã được trau chuốt, (cũng) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự dâng cúng cháo chua này.
728. Một trăm con voi giống Hi-mã-lạp, có ngà như gọng xe, vững chãi, có chuông vàng, là loài long tượng có trang phục với yên cương bằng vàng, (cũng) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự dâng cúng cháo chua này.
729. Người nào có thể hành xử vương quyền ở nơi đây, thậm chí đối với bốn châu lục, (cũng) không giá trị bằng một phần mười sáu của sự dâng cúng cháo chua này.”
Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Cháo Chua.
730. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
731. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các âm thanh thuộc cõi Trời, làm êm tai, làm thích ý, phát ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
732. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các hương thơm thuộc cõi Trời, là các hương thơm tinh khiết, làm thích ý, tỏa ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
733. Trong khi nàng đang xoay tròn cơ thể, tiếng ngân vang của các vật trang sức ở các bím tóc được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
734. Các vòng hoa đeo tai bị gió thổi, bị lay động bởi làn gió, tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
735. Luôn cả những tràng hoa ở trên đầu của nàng là có hương thơm tinh khiết, làm thích ý; giống như cây mañjūsaka, hương thơm (của tràng hoa) thổi đi khắp các phương.
736. Nàng ngửi hương thơm tinh khiết ấy, nàng nhìn thấy hình ảnh không thuộc nhân gian. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
737. “Thưa ngài đại đức, ở thành Sāvatthī người bạn gái của tôi đã cho xây dựng ngôi trú xá lớn dành cho Hội Chúng. Tại nơi ấy, sau khi nhìn thấy tòa nhà, được tịnh tín, tôi đã tùy hỷ, và nó là yêu quý đối với tôi.
738. Bởi chính sự tùy hỷ trong sạch ấy của tôi mà tôi đã đạt được Thiên cung tuyệt vời, duyên dáng. Nó di chuyển ở không trung, xung quanh mười sáu do-tuần, nhờ vào thần lực của tôi.
739. Các chỗ ngụ của tôi là những ngôi nhà mái nhọn, được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng xung quanh một trăm do-tuần.
740. Và ở nơi đây, tôi có các hồ sen được loài cá puthuloma lai vãng, có nước trong sạch, được yên tĩnh, được trải cát bằng vàng.
741. Được che phủ bởi nhiều loại sen khác nhau, được trải rộng với những cây sen trắng, (các hồ sen) làm hài lòng, được lay động bởi làn gió, tự tỏa ra các hương thơm.
742. Bên trong chỗ trú ngụ đã mọc lên nhiều loại cây khác nhau không được gieo trồng như các cây mận đỏ, các cây mít, các cây lá cọ, và các khu rừng dừa.
743. (Thiên cung) được vang vang nhiều loại nhạc cụ khác nhau, được vang động bởi đoàn tiên nữ. Thậm chí người đàn ông nào nhìn thấy tôi ở trong giấc mơ, người ấy cũng được phấn chấn.
744. Thiên cung như thế ấy, tuyệt vời, duyên dáng, đang tỏa sáng khắp mọi phía, được sanh lên từ các nghiệp của tôi; vậy là đủ để thực hiện các việc phước thiện.”
745. “Bởi chính sự tùy hỷ trong sạch ấy của nàng mà nàng đã đạt được Thiên cung tuyệt vời, duyên dáng. Và chính cô nàng nào là người phụ nữ đã dâng cúng vật thí, xin hãy nói về cảnh giới tái sanh của cô ấy. Cô ấy đã được sanh lên ở đâu?”
746. “Thưa ngài đại đức, cô ấy đã là người bạn gái của tôi, là người đã cho xây dựng trú xá lớn dành cho Hội Chúng. Đã nhận thức được Giáo Pháp, cô ấy đã dâng cúng vật thí, và đã được sanh lên ở giữa chư Thiên của cõi Trời Hóa Lạc.
747. (Cô ấy) là người vợ chánh của (Thiên Vương) Sunimmita ấy; quả thành tựu về nghiệp của cô ấy là không thể nghĩ bàn. Về điều mà ngài đã hỏi: ‘Cô ấy đã được sanh lên ở đâu?’ tôi đã trả lời ngài về điều ấy không có sai khác.
748. Chính vì thế, xin ngài hãy khuyến khích luôn cả những người khác rằng: ‘Được phấn chấn, các người hãy dâng cúng các vật thí đến Hội Chúng. Với tâm ý tịnh tín, các người hãy lắng nghe Giáo Pháp. Sự đạt được (trạng thái) con người, (mà các người) đã đạt được, là sự đạt được vô cùng khó khăn.
749. Đạo lộ nào mà bậc có giọng nói của Phạm Thiên, có làn da tựa như vàng, đã thuyết giảng là đứng đầu các đạo lộ. Được phấn chấn, các người hãy dâng cúng các vật thí đến Hội Chúng, là nơi các sự cúng dường có quả báo lớn lao.
750. Tám hạng người nào được các bậc thiện nhân ca ngợi, các vị này là bốn đôi, các vị ấy là các Thinh Văn của đấng Thiện Thệ, xứng đáng được cúng dường; các vật đã được bố thí đến các vị này là có các quả báo lớn lao.
751. Bốn hạng đang thực hành (bốn Đạo) và bốn hạng đã trụ ở Quả vị (bốn Quả), Hội Chúng ấy có bản thể chính trực, có Giới - Định - Tuệ.
752. Đối với những con người đang hiến cúng, đối với các chúng sinh mong mỏi phước báu đang thực hiện phước thiện có liên quan đến việc tái sanh, vật đã được dâng cúng (của họ) đến Hội Chúng là có quả báo lớn lao.
753. Bởi vì Hội Chúng ấy là bao la, đã đi đến sự vĩ đại. Hội Chúng ấy không thể đo lường, tựa như biển cả, đại dương. Chính những vị này là hạng nhất, là các đệ tử của bậc Anh Hùng trong số các nam nhân, là những đấng quang đăng tuyên thuyết Giáo Pháp.
754. Những người nào dâng cúng vật thí xác định dành cho Hội Chúng, sự bố thí của những người ấy là đã khéo được dâng cúng, khéo được hiến dâng, khéo được hiến cúng. Sự cúng dường ấy, đã đi đến Hội Chúng, đã được tạo lập, có quả báo lớn lao, đã được các đấng Hiểu Biết Thế Gian khen ngợi.
755. Những người nào đi lang thang ở thế gian với niềm vui đã được sanh khởi trong khi nhớ lại sự hiến cúng như thế ấy, (những người ấy) sau khi loại bỏ bợn nhơ của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị quở trách, và đi đến địa vị cõi Trời.”
Thiên Cung Trú Xá.
TỤNG PHẨM THỨ NHÌ.
756. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
757. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
758. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
759. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
760. “Tôi đã dâng một nắm bông súng xanh đến vị tỳ khưu đang đi khất thực ở thành phố cao quý Paṇṇakata đáng yêu thuộc vùng cao nguyên của xứ Esika.
761. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
762. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.” (Người nữ bố thí bông súng xanh)
763. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
764. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
765. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
766. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
767. “Tôi đã dâng một nắm bông sen xanh đến vị tỳ khưu đang đi khất thực ở thành phố cao quý Paṇṇakata đáng yêu thuộc vùng cao nguyên của xứ Esika.
768. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
769. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.” (Người nữ bố thí bông sen xanh)
770. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
771. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) c thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ
thích ý sanh lên cho nàng?
772. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
773. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
774. “Tôi đã dâng loại cây có rễ màu trắng lá màu xanh mọc ở nước trong hồ đến vị tỳ khưu đang đi khất thực ở thành phố cao quý Paṇṇakata đáng yêu thuộc vùng cao nguyên của xứ Esika.
775. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
776. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.” (Người nữ bố thí loại cây có rễ trắng)
777. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
778. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
779. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
780. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
781. “Tôi, Sumanā, đã dâng các nụ hoa nhài có màu ngà đến vị tỳ khưu có thiện tâm đang đi khất thực ở thành phố cao quý Paṇṇakata đáng yêu thuộc vùng cao nguyên của xứ Esika.
782. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) c thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý
sanh lên cho tôi.
783. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.” (Người nữ bố thí nụ hoa nhài)
Thiên Cung của Bốn Phụ Nữ.
784. “Khu vườn xoài thuộc cõi Trời của nàng là đáng yêu; nơi đây có tòa lâu đài rộng lớn, được vang vang nhiều loại nhạc cụ khác nhau, được vang động bởi đoàn tiên nữ.
785. Và nơi đây, có ngọn đèn vĩ đại bằng vàng cháy sáng thường xuyên, được bao bọc xung quanh bởi những loại cây cối có sự kết trái là các tấm vải.
786. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
787. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
788. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
789. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, đã cho xây dựng ngôi trú xá, dành cho Hội Chúng, được bao quanh bởi những cây xoài.
790. Khi ngôi trú xá đã được hoàn thành, đã được chấm dứt, trong khi cho thực hiện ở lễ hội, tôi đã tạo ra các trái cây được làm bằng các tấm vải rồi đã phủ kín các cây xoài (với các trái cây giả tạo ấy).
791. Tại nơi ấy, tôi đã cho thắp sáng cây đèn và đã dâng thức ăn đến tập thể tối thượng. Được tịnh tín, tôi đã tự tay chuyển giao ngôi trú xá ấy đến Hội Chúng.
792. Do việc ấy, tôi có được khu vườn xoài đáng yêu; nơi đây có tòa lâu đài rộng lớn, được vang vang nhiều loại nhạc cụ khác nhau, được vang động bởi đoàn tiên nữ.
793. Và nơi đây, có ngọn đèn vĩ đại bằng vàng cháy sáng thường xuyên, c bao bọc xung quanh bởi những cây cối có những trái cây là các tấm vải.
794. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
795. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Vườn Xoài.
796. “Hỡi cô nàng có y phục màu vàng, có cờ hiệu màu vàng, được điểm trang với các vật trang sức màu vàng, có cơ thể được bôi trầm hương màu vàng, có tràng hoa sen màu vàng.
797. Hỡi cô nàng có tòa lâu đài và giường nằm màu vàng, có ghế ngồi màu vàng, có chén bát màu vàng, có lọng che màu vàng, có cỗ xe kéo màu vàng, có ngựa màu vàng, có quạt màu vàng.
798. Này cô nàng hiền thục, nàng đã tạo nghiệp gì trong thời quá khứ ở cảnh giới loài người? Này nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
799. “Thưa ngài, có loại dây leo tên là kosātakī, không được ca tụng, không được khao khát. Tôi đã mang bốn bông hoa của nó đến ngôi bảo tháp.
800. Với tâm ý thanh tịnh hướng đến di thể xá-lợi của bậc Đạo Sư, trong khi có tâm ý đặt ở vật cao quý ấy, tôi đã không xem xét lối đi của con bò cái.
801. Do đó, con bò cái đã húc chết tôi, lúc tâm ý còn chưa đạt đến ngôi bảo tháp. Nếu tôi có thể chu toàn việc ấy, chắc hẳn còn được nhiều hơn thế này nữa.
802. Thưa vị chúa của chư Thiên, đấng Maghavā, bậc long tượng của chư Thiên, do nghiệp ấy, sau khi từ bỏ thân xác nhân loại, tôi đã đi đến trạng thái cộng trú với ngài.”
803. Sau khi nghe được điều này, vị chúa tể của cõi Ba Mươi (Ba), đấng Maghavā, bậc long tượng của chư Thiên, trong khi tạo niềm tịnh tín cho (chư Thiên) cõi Ba Mươi (Ba), đã nói với Mātali điều này:
804. “Này Mātali, ngươi hãy nhìn xem nghiệp quả (quả báo của nghiệp) này là kỳ diệu, đa dạng; vật dâng cúng đã được thực hiện mặc dầu ít ỏi nhưng phước báu có kết quả lớn lao.
805. Khi tâm được tịnh tín, sự cúng dường ở đức Như Lai Chánh Đẳng Giác, hay là ở vị Thinh Văn của Ngài, không thể gọi là nhỏ nhoi.
806. Này Mātali, hãy đến. Ngay cả chúng ta cũng nên tôn vinh các xá-lợi của đức Như Lai nhiều hơn nhiều hơn nữa; sự tích lũy các việc phước thiện là hạnh phúc.
807. Khi Ngài đang còn tại tiền, và luôn cả khi Ngài đã tịch diệt, khi tâm bằng nhau thì quả báo bằng nhau. Các chúng sanh đi đến cảnh giới an vui do các yếu tố ở sự quyết định của tâm.
808. Thật vậy, các đức Như Lai hiện khởi vì lợi ích của số đông; sau khi thực hiện sự phục vụ đến quý Ngài, các thí chủ đi đến cõi Trời.”
Thiên Cung Màu Vàng.
809. “Sau khi làm chói sáng trái đất luôn cả chư Thiên, nàng sáng chói vượt trội, tựa như mặt trăng và mặt trời, với sự vinh quang, với sắc đẹp, với danh tiếng, và với quyền uy, tựa như vị Đại Phạm Thiên sáng chói vượt trội chư Thiên và thần Inda ở cõi Ba Mươi (Ba).
810. Hỡi cô nàng có mang tràng hoa sen xanh, có vòng hoa đội đầu, có làn da như là vàng, đã được trang điểm, có sự trang phục với loại vải thượng hạng, ta hỏi nàng: Hỡi nàng tiên xinh đẹp, nàng là ai mà đảnh lễ ta?
811. Trước đây, nàng đã tự mình tạo nghiệp gì, khi là con người ở kiếp sống trước đây, là việc bố thí đã khéo được thực hiện hay sự thu thúc giới hạnh? Này cô nàng có danh tiếng, do việc (phước thiện) nào mà nàng đã được sanh lên chốn an vui? Này nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
812. “Thưa ngài, mới đây, ở chính ngôi làng này, ngài đã đi đến căn nhà của chúng tôi để khất thực. Do đó, có tâm tịnh tín, tôi đã dâng ngài khúc mía với niềm vui không gì sánh bằng.
813. Và sau đó, mẹ chồng chất vấn tôi rằng: ‘Này cô dâu, cô đã ném bỏ khúc mía ở chỗ nào?’ ‘Con đã không quăng bỏ, hơn nữa con cũng không có ăn, con đã đích thân dâng đến vị tỳ khưu an tịnh.’
814. ‘Quyền hành này là thuộc về cô hay thuộc về tôi?’ Người mẹ chồng đã mắng chửi tôi như thế, rồi đã cầm lấy cục đất và giáng cho tôi cú đánh. Đã chết từ nơi ấy, tôi đã qua đời, trở thành vị Thiên nhân.
815. Chính nghiệp thiện ấy đã được tạo ra bởi tôi. Và tôi thụ hưởng hạnh phúc, quả báu về nghiệp của mình. Tôi tiêu khiển cùng với chư Thiên, tôi vui sướng với năm loại dục.
816. Chính nghiệp thiện ấy đã được tạo ra bởi tôi. Và tôi thụ hưởng hạnh phúc, quả báu về nghiệp của mình. Được hộ trì bởi vị Chúa của chư Thiên, được bảo vệ bởi chư Thiên ở cõi Ba Mươi (Ba), tôi được cung ứng với năm loại dục.
817. Quả phước thiện như thế ấy không phải là ít, việc cúng dường mía của tôi là có quả thành tựu lớn lao. Tôi tiêu khiển cùng với chư Thiên, tôi vui sướng với năm loại dục.
818. Quả phước thiện như thế ấy không phải là ít, việc cúng dường mía của tôi có sự vinh quang lớn lao. Được hộ trì bởi vị Chúa của chư Thiên, được bảo vệ bởi chư Thiên ở cõi Ba Mươi (Ba), (tôi) tựa như vị Thần Ngàn Mắt ở khu vườn Nandana.
819. Và thưa ngài, sau khi đến gần ngài, vị có lòng thương xót, có sự hiểu biết, tôi đã đảnh lễ và đã hỏi về sức khỏe. Do đó, có tâm tịnh tín, tôi đã dâng ngài khúc mía với niềm vui không gì sánh bằng.”
Thiên Cung Khúc Mía.
820. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
821. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
822. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
823. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
824. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, sau khi nhìn thấy các vị Samôn có giới hạnh, tôi đã đảnh lễ các bàn chân, và tôi đã làm cho tâm được tịnh tín. Được phấn chấn, tôi đã chắp tay lại.
825. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
826. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung do sự Đảnh Lễ.
827. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật. Nàng duỗi ra các bàn tay và các bàn chân, nàng nhảy múa ở phần trình tấu khéo léo.
828. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các âm thanh thuộc cõi Trời, làm êm tai, làm thích ý, phát ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
829. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các hương thơm thuộc cõi Trời, là các hương thơm tinh khiết, làm thích ý, tỏa ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
830. Trong khi nàng đang xoay tròn cơ thể, tiếng ngân vang của các vật trang sức ở các bím tóc được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
831. Các vòng hoa đeo tai bị gió thổi, bị lay động bởi làn gió, tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
832. Luôn cả những tràng hoa ở trên đầu của nàng là có hương thơm tinh khiết, làm thích ý; giống như cây mañjūsaka, hương thơm (của tràng hoa) thổi đi khắp các phương.
833. Nàng ngửi hương thơm tinh khiết ấy, nàng nhìn thấy hình ảnh không thuộc nhân gian. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
834. “Trước đây, tôi đã là tỳ nữ của người Bà-la-môn ở Gayā. Tôi có phước báu ít ỏi, không được may mắn; mọi người đã biết tôi là ‘Rajjumālā’ (cô gái có tràng hoa là sợi dây thừng).
835. Bị đày đọa bởi sự dọa nạt và những sự mắng nhiếc, đánh đập, tôi đã cầm lấy bình nước, lìa khỏi, và đã đi vì việc mang nước.
836. Sau khi để xuống cái bình nước ở con đường rẽ, tôi đã tiến vào khu rừng rậm (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ chết ở ngay tại đây. Có ích gì với mạng sống của ta?’
837. Sau khi làm cái thòng lọng chắc chắn rồi máng vào thân cây, sau đó tôi đã xem xét các hướng (nghĩ rằng): ‘Người nào hiện đang sống ở rừng?’
838. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, đấng Phúc Lợi của tất cả thế gian, bậc Hiền Trí, ngồi ở gốc cây, đang tham thiền, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.
839. Tôi đây đã có sự chấn động, có sự nổi da gà kỳ lạ (nghĩ rằng): ‘Người nào hiện đang sống ở rừng, loài người hay là Thiên nhân?’
840. Sau khi nhìn thấy vị tạo được niềm tin, đáng được tin tưởng, đã lìa khỏi khu rừng (phiền não) đến nơi không còn rừng (phiền não), tâm của tôi đã được tịnh tín (nghĩ rằng): ‘Người này không giống người bình thường.
841. Có các giác quan đã được canh phòng, được thích thú với việc tham thiền, có tâm ý không hướng ngoại, vị này đây sẽ là đức Phật, đấng Phúc Lợi của tất cả thế gian, ...
842. ... tựa như con sư tử nương náu ở hang động, gây ra nỗi sợ hãi và khiếp đảm, khó mà tiếp cận, khó được gặp, giống như bông hoa odumbara.’
843. Sau khi chuyện trò với tôi bằng những lời nói dịu dàng, đức Như Lai ấy đã nói với tôi rằng: ‘Này Rajjumālā, hãy đi đến nương nhờ đức Như Lai.’
844. Tôi đã lắng nghe lời nói không sai sót, có lợi ích, thanh tịnh, bặt thiệp, mềm mỏng, ngọt ngào, và có sự xua đi tất cả sầu muộn.
845. Sau khi biết được tôi có tâm đã sẵn sàng, được tịnh tín, có tâm ý trong sạch, đấng Phúc Lợi của tất cả thế gian, đức Như Lai đã chỉ dạy rằng:
846. ‘Đây là Khổ,’ Ngài đã nói với tôi như thế. ‘Đây là Nguồn Gốc của Khổ, đây là sự Tịch Diệt, và Đạo Lộ trực chỉ thâm nhập vào sự Bất Tử.’
847. Tôi đã trụ lại trong lời giáo huấn của bậc thiện xảo có lòng thương tưởng; tôi đã chứng đắc sự Bất Tử, an tịnh, Niết Bàn, vị thế vĩnh cửu.
848. Tôi đây đã đứng vững, có lòng yêu mến, không có sự dao động về quan điểm, với đức tin đã được sanh ra từ cội rễ, là người con gái chánh thống của đức Phật.
849. Tôi đây thích thú, đùa giỡn, vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu, tôi mang tràng hoa của cõi Trời, tôi uống sự dịu ngọt của mật ong.
850. Có sáu mươi ngàn nhạc cụ làm công việc tiêu khiển cho tôi. (Các nhạc công nam) Āḷamba, Gaggara, Bhīma, Sādhuvādī, và Saṃsaya, ...
851. ... Pokkhara, Suphassa, còn các tiên nữ là Vīṇā, Mokkhā, Nandā, luôn cả Sunandā, Soṇadinnā, và Sucimhitā, ...
852. ... Aḷambusā, Missakesī và Puṇḍarīkā, Aticāruṇī, Eṇiphassā, Suphassā và Subhaddā, Muduvādinī.
853. Các cô này và các cô khác là những người làm công việc tiêu khiển giỏi hơn hết trong số các Thiên nhân. Vào thời điểm thích hợp, các Thiên nhân tự nguyện đi đến thưa rằng:
854. ‘Nào, hãy để chúng tôi múa, hãy để chúng tôi ca. Nào, hãy để chúng tôi làm cho nàng thích thú.’ (Khu vườn) Nandana không sầu muộn đáng yêu này, khu vườn lớn ở cõi Ba Mươi (Ba), là không dành cho những người không làm phước thiện, nơi này chỉ dành cho những người đã làm phước thiện.
855. Không có sự an lạc cho những người không làm phước thiện ở nơi này và nơi khác, nhưng có sự an lạc cho những người đã làm phước thiện ngay ở nơi này và nơi khác nữa.
856. Đối với những người mong mỏi sự cộng trú ấy thì nên làm nhiều việc tốt lành, bởi vì những người đã làm phước thiện là những người thành tựu tài sản, được vui sướng ở cõi Trời.
857. Thật vậy, các đức Như Lai hiện khởi vì lợi ích của số đông, các Ngài xứng đáng được cúng dường, là những nơi sản xuất các ruộng phước cho loài người; sau khi thể hiện sự phục vụ ở những nơi ấy, các thí chủ đi đến cõi Trời.”
Thiên Cung của Rajjumālā.
Phẩm Mañjeṭṭhaka là thứ tư.
*****
Tóm Lược Phẩm Này
(Thiên cung) màu đỏ tía, rực rỡ, long tượng, Alomā, người nữ bố thí cháo chua, trú xá, bốn phụ nữ, vườn xoài, (Thiên cung) màu vàng, (chuyện) khúc mía, do sự đảnh lễ, (chuyện) Rajjumālā; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.
Thiên Cung Nữ Giới được đầy đủ.
--ooOoo--
858. “Người nào, trong khi đang chói sáng nhờ vào thần lực và danh tiếng, trong khi đang làm cho khắp các phương sáng rực lên nhờ vào màu da nổi bật, mà đảnh lễ các bàn chân của Ta?”
859. “Trước đây, con đã là con ếch ở nước, là loài có sự kiếm ăn ở nước. Trong khi con đang lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, có người chăn bò đã hại chết con.
860. Xin Ngài hãy nhìn xem thần lực và danh tiếng của con, xin Ngài hãy nhìn xem năng lực của con, và xin Ngài hãy nhìn xem màu da và sự sáng chói của con, kẻ có niềm tịnh tín ở tâm trong chốc lát.
861. Bạch đức Gotama, còn những người nào đã lắng nghe Giáo Pháp trong thời gian lâu dài, những người ấy đã đạt đến vị thế không bị dao động, là nơi không sầu muộn sau khi đi đến.”
Thiên Cung của Thiên tử Ếch.
862. “Đối với người có cuộc sống xa nhà lâu dài đã trở về an toàn từ phương xa, thân quyến bạn bè và người quen mừng vui đón người đã trở về.
863. Tương tự y như thế, (đối với) người đã làm việc phước thiện từ thế gian này sanh đến thế giới khác, các phước báu tiếp đón (người ấy) tựa như các quyến thuộc tiếp đón người thân yêu đã trở về.”
864. “Này Revatā, này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cô hãy đứng lên. Này cô nàng không có nết hạnh bố thí, cánh cửa (địa ngục) là không bị đóng lại. Chúng tôi sẽ đưa cô đến nơi mà những kẻ bị đọa vào khổ cảnh than khóc, (và) những kẻ địa ngục bị gánh chịu khổ đau.”
865. Sau khi chỉ nói như thế, các sứ giả cõi Dạ-ma, hai Dạ-xoa ấy, có cặp mắt đỏ ngầu, cao to, mỗi người một cánh tay, đã nắm lấy Revatā rồi đi đến nơi có sự hiện diện của hội chúng chư Thiên.
866. “Thiên cung xinh đẹp, được che đậy bằng mạng lưới vàng, có màu sắc của mặt trời, đáng yêu, rực rỡ. Thiên cung này, có người đông đảo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người nào?
867. Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung điện được sáng chói cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nhìn thấy có màu sắc như là mặt trời. Người nào đã đạt đến cõi Trời và vui sướng ở Thiên cung?”
868. “Ở Bārāṇasī, đã có người cận sự nam tên là Nandiya, không bỏn xẻn, là người thí chủ, là người nhân từ. Thiên cung này, có người đông đảo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người ấy.
869. Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung điện được rực sáng cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nhìn thấy có màu sắc như là mặt trời. Người ấy đã đạt đến cõi Trời và vui sướng ở Thiên cung.”
870. “Tôi là người vợ của Nandiya, là nữ gia chủ, có uy quyền đối với tất cả gia đình. Giờ đây, tôi sẽ thích thú ở Thiên cung của chồng, tôi không mong mỏi về việc nhìn thấy địa ngục.”
871. “Này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cái địa ngục ấy là dành cho cô. Việc phước thiện đã không được cô làm khi ở thế giới có cuộc sống. Bởi vì người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đạt được sự cộng trú với những người đã đi đến cõi Trời.”
872. “Phân và nước tiểu nhơ bẩn được nhìn thấy là cái gì vậy? Cái mùi hôi thối này là cái gì? Cái phân bốc mùi này là cái gì?”
873. “Này Revatā, cái ấy gọi là địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam, là nơi cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.”
874. “Vậy việc làm ác nào đã được làm do thân, do khẩu, do ý? Vì việc gì mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam?”
875. “Cô lừa gạt các Sa-môn, các Bà-la-môn, và luôn cả những người khốn khổ khác nữa bằng lời nói dối trá; việc xấu xa ấy đã do cô gây ra.
876. Này Revatā, do việc ấy mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam, ở nơi ấy cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.
877. Chúng chặt các bàn tay, rồi luôn cả các bàn chân, chúng xẻo các lỗ tai, rồi luôn cả lỗ mũi, rồi còn có các bầy quạ bu lại, tụ tập lại, ngấu nghiến kẻ đang quằn quại.”
878. “Quả là tốt đẹp, xin các vị hãy đưa tôi trở về, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện, là việc mà sau khi thực hành, người ta được hạnh phúc và không bị ân hận về sau này.”
879. “Trước đây cô đã xao lãng rồi bây giờ than van. Cô sẽ gánh chịu quả thành tựu của các nghiệp đã làm của mình.”
880. “Vị nào, sau khi từ thế giới chư Thiên đi đến thế giới loài người, được tôi hỏi rồi nói như vầy: ‘Nàng nên dâng cúng vật thí, y phục, chỗ nằm, và cơm nước ở những vị đã buông các gậy gộc xuống, bởi vì người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đạt được sự cộng trú với những người đã đi đến cõi Trời?’
881. Chắc chắn rằng tôi đây, khi đã đi khỏi nơi này, thì sau khi đạt được việc sanh lại làm người, (tôi sẽ) là người nhân từ, đầy đủ giới hạnh, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện.
882. Với tâm ý tịnh tín, tôi sẽ cho dựng lên các tu viện, các cây cầu ở chỗ khó đi, nước uống dọc đường, và giếng nước.
883. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.
884. Tôi sẽ hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới, và sẽ không xao lãng trong việc bố thí; điều này đã được đích thân tôi nhìn thấy.”
885. Trong khi cô ấy đang rên rỉ như thế, đang quằn quại thế này thế khác, chúng đã ném cô ấy vào địa ngục ghê rợn, chân phía trên, đầu phía dưới.
886. “Trước đây, tôi đã là người bỏn xẻn, là người mắng nhiếc các vị Samôn và Bà-la-môn, và sau khi dối gạt người chồng bằng việc không thật, tôi bị nung nấu ở địa ngục có hình thức ghê rợn.”
Thiên Cung của Revatī.
887. “Vị nào là đấng quý cao trong số các bậc thuyết giảng của loài người, là bậc Hiền Trí dòng Sakya, đức Thế Tôn, có phận sự đã làm xong, đã đi đến bờ kia, có được sức mạnh và sự tinh tấn; ngươi hãy đến gần đấng Thiện Thệ ấy với mục đích nương nhờ.
888. Giáo Pháp này không nhiễm ái luyến, không dục vọng, không sầu muộn, không bị tạo tác, không đáng ghét, ngọt ngào, có sự hoàn thiện, khéo được phân tích; ngươi hãy đến gần Giáo Pháp này với mục đích nương nhờ.
889. Và nơi nào người ta đã nói vật được bố thí là có quả báo lớn, (tức là) ở bốn đôi của hạng người trong sạch; tám hạng ấy là các cá nhân đã nhìn thấy Giáo Pháp; ngươi hãy đến gần Hội Chúng này với mục đích nương nhờ.”
890. “Không giống như mặt trời chói sáng ở bầu không gian, mặt trăng và sao Phussa đều không chiếu sáng giống như người này, vị có ánh sáng vĩ đại, không thể đo lường; ngươi là ai mà đã từ cõi Ba Mươi (Ba) đi đến trái đất?
891. Ánh sáng với sự vượt trội hai mươi do-tuần cắt đứt các ánh hào quang của mặt trời, và làm cho ban đêm cũng giống như ban ngày. Thiên cung là hoàn toàn trong sạch, không bụi bặm, xinh đẹp.
892. Với nhiều sen trắng, sen hồng nhiều màu sắc, được trộn lẫn với các bông hoa, được tô điểm nhiều màu sắc, được bao phủ bởi mạng lưới vàng không bụi, sạch bụi, (Thiên cung ấy) chói sáng ở không trung cũng giống như mặt trời.
893. Với các tấm vải màu đỏ và y phục màu vàng, với các chất bôi thơm như là agaru, piyaṅgu, và trầm hương, với các làn da mềm mại tựa như vàng, (Thiên cung ấy) được hoàn mãn tựa như bầu trời được hoàn mãn nhờ vào các vì sao.
894. Ở đây, có nhiều người nam người nữ với nhiều sắc thái, ở đây là những người có thiện tâm, có các đồ trang sức được điểm trang với các bông hoa, được tự do theo làn gió, tỏa ra hương thơm, được trải rộng với (dây buộc bằng) vàng (ở bím tóc), có y phục bằng vàng.
895. Quả thành tựu này là do sự an tịnh và rèn luyện nào? Do kết quả của việc làm nào mà ngươi đã được sanh ra ở nơi đây? Và như thế nào mà ngươi đã được ngự đến cung điện này? Nào, đã được hỏi, ngươi hãy nói về điều ấy theo từng phần một.”
896. “Bởi vì, tại nơi đây, ở con đường lộ, sau khi gặp gỡ với người thanh niên, bậc Đạo Sư trong khi thương xót đã giáo huấn. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp thuộc về báu vật cao quý của Ngài, Chatta đã nói rằng: ‘Tôi sẽ thực hiện.’
897. ‘Ngươi hãy đi đến nương nhờ đấng Jina cao quý tối thượng, luôn cả Giáo Pháp nữa, và tương tự y như thế (với) Hội Chúng tỳ khưu.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: - Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
898. ‘Và ngươi chớ thực hành việc giết hại sanh mạng theo nhiều cách, không trong sạch, bởi vì các bậc thiện trí đã không ngợi khen việc không kiềm chế đối với các sanh mạng.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: - Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
899. ‘Và ngươi chớ nghĩ đến vật đã được gìn giữ thuộc về người khác, vật không nên được lấy đi, vật không được cho.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
900. ‘Và ngươi chớ đi đến những người vợ của kẻ khác, những người nữ đã được gìn giữ bởi người nam khác; việc này là không thánh thiện.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
901. ‘Và ngươi chớ nói việc không đúng sự thật, theo cách thức sai khác, bởi vì các bậc thiện trí đã không ngợi khen lời nói dối trá.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
902. ‘Và do vật nào mà sự nhận biết của con người lìa khỏi, ngươi hãy lánh xa tất cả chất say ấy.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.
903. Tôi đây, ở nơi này, sau khi làm theo năm điều học, sau khi thực hành theo Giáo Pháp của đức Như lai, đã đi con đường nối liền hai ngôi làng, ở giữa những kẻ cướp. Chúng đã giết hại tôi ở tại nơi ấy vì nguyên nhân của cải.
904. Tôi nhớ lại điều tốt đẹp này chỉ có chừng ấy, tôi không biết về điều gì khác hơn thế nữa. Do nghiệp đã khéo được thực hành ấy, tôi đã được sanh lên ở các cảnh giới chư Thiên, có các dục theo sự ao ước.
905. Xin Ngài hãy nhìn xem quả thành tựu của sự thu thúc trong giây lát trong phút chốc nhờ vào sự thực hành thuận theo Giáo Pháp. Trong lúc nhìn thấy tôi tựa như đang chói sáng nhờ vào danh tiếng; nhiều người, có nghiệp hạ liệt, ganh tỵ với tôi.
906. Xin Ngài hãy nhìn xem, nhờ vào sự thuyết giảng chút ít, tôi đã đi đến cõi Trời và đã đạt đến an lạc. Còn những người nào thường xuyên lắng nghe Giáo Pháp, tôi nghĩ rằng những người ấy chạm đến Bất Tử, sự an toàn.
907. Việc đã được làm, dầu chỉ chút ít, ở Giáo Pháp của đức Như Lai là có quả thành tựu vĩ đại, bao la. Xin Ngài hãy nhìn xem, với phước thiện đã làm, Chatta làm cho trái đất chói sáng, thậm chí giống như mặt trời.
908. Việc tốt đẹp này là gì? Chúng ta nên thực hành điều gì? Nhiều người, sau khi gặp nhau bàn thảo như thế. Chúng ta đây đã đạt được bản thể nhân loại thêm lần nữa; đã được đạt đến, chúng ta hãy sống có giới hạnh.
909. Và bậc Đạo Sư, với nhiều sự tiếp độ, bậc có lòng thương tưởng, đã đi đến với tôi vào lúc sáng sớm, khi tôi còn sống, tôi đây đã đi đến gặp bậc có tên là Sự Thật (nói rằng): ‘Xin Ngài hãy thương tưởng, hãy để chúng tôi nghe Giáo Pháp thêm lần nữa.’
910. Và ở đây, những vị nào dứt bỏ sự luyến ái ở các dục, sau khi dứt bỏ sự tiềm ẩn về hữu ái, và si mê, các vị ấy không đi đến thai bào lần nữa, bởi vì các vị đã ngự đến cảnh giới Niết Bàn, có trạng thái mát mẻ.”
Thiên Cung của Thanh Niên Bà-la-môn Chatta.
911. “Thiên cung này cao, có cây trụ chống bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
912. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
913. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
914. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
915. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
916. “Vật gợi lại ký ức là con cua được gắn ở cánh cửa, có mười chân, đã được hoàn tất, bằng vàng, chói sáng.
917. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
918. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Xúp Cua.
919. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
920. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
921. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
922. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
923. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
924. Tuổi thọ một ngàn năm thuộc cõi Trời của tôi là (d0) việc đã thưa gởi bằng lời, việc đã vận hành bởi ý; chỉ với chừng ấy (việc làm) người có hành động phước thiện sẽ tồn tại, được thọ hưởng các dục ở cõi Trời.
925. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
926. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Giữ Cửa.
927. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
928. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
929. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
930. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
931. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
932. “Các việc phước thiện là những việc nên được thực hiện bởi người sáng trí, bởi người có sự nhận thức ở nơi chư Phật là những vị đã thực hành đúng đắn, là nơi mà vật đã được bố thí có quả báo lớn.
933. Quả thật vì sự lợi ích của tôi, đức Phật đã từ khu rừng đi đến ngôi làng. Sau khi khởi tâm tịnh tín ở Ngài, tôi đã đi đến cõi Trời Ba Mươi Ba.
934. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
935. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung do Việc Nên Làm.
936. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
937. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
938. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
939. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
940. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
941. “Các việc phước thiện là những việc nên được thực hiện bởi người sáng trí, bởi người có sự nhận thức, ở nơi các vị tỳ khưu là những vị đã thực hành đúng đắn, là nơi mà vật đã được bố thí có quả báo lớn.
942. Quả thật vì sự lợi ích của tôi, vị tỳ khưu đã từ khu rừng đi đến ngôi làng. Sau khi khởi tâm tịnh tín ở Ngài, tôi đã đi đến cõi Trời Ba Mươi Ba.
943. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
944. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung do Việc Nên Làm thứ nhì.
945. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
946. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
947. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
948. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
949. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
950. “Vật (được thành tựu) ấy không phải là vật đem ra bố thí. Chính vật (được thành tựu) ấy là tốt hơn chính cái vật đem ra bố thí. Đối với tôi, cây kim đã được bố thí, (quả thành tựu) còn tốt hơn chính cây kim.
951. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
952. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung do Cây Kim.
953. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
954. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
955. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
956. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
957. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
958. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, ...
959. ... tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng cây kim đến vị ấy.
960. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
961. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung do Cây Kim thứ nhì.
962. “Sau khi cỡi lên con long tượng có thân trắng toát, không khuyết điểm, có ngà, có sức mạnh, có tốc độ vĩ đại, là con long tượng cao quý, dùng để cưỡi, đã khéo được sửa soạn, ngươi đã đi đến nơi đây theo đường không trung, ở trên bầu trời.
963. Có những hồ sen với nước trong sạch, khéo nở rộ hoa, đã được hóa hiện ra ở hai ngà của con voi, có những nhóm nhạc cụ đã được vang lên ở những đóa sen, và có những phụ nữ quyến rũ này nhảy múa.
964. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
965. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
966. “Được tịnh tín, tôi đã tự tay cúng dâng ở ngôi bảo tháp của bậc Đại Ẩn Sĩ Kassapa chỉ có tám bông hoa đã bị đánh rơi.
967. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
968. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Long Tượng.
969. “Sau khi cỡi lên con long tượng to lớn, toàn thân màu trắng, đứng đầu các con voi, dẫn đầu đám phụ nữ đi dạo từ rừng này sang rừng khác, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
970. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
971. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
972. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được chính ngài Vaṅgīsa hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
973. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, tôi đã là người nam cư sĩ của đấng Hữu Nhãn. Tôi đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.
974. Không có việc uống chất say, và tôi đã không nói lời dối trá, tôi đã được vui thích (chỉ) với người vợ của mình, có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
975. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
976. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Long Tượng thứ nhì.
977. “Vị nào, với phương tiện di chuyển của cõi Trời, với con voi toàn thân màu trắng, có âm thanh vang vang đã được vỗ lên từ các loại nhạc cụ, được tôn vinh ở trên không trung?
978. Phải chăng ngài là Thiên nhân, là nhạc sĩ Thiên đình, hay là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây? Trong khi không biết, chúng tôi xin hỏi ngài, làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết ngài?”
979. “Ta không là Thiên nhân, không là nhạc sĩ Thiên đình, cũng không là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây; những Thiên nhân nào có tên là Sudhammā, ta là một trong số các vị ấy.”
980. “Chúng tôi nghiêm trang chắp tay hỏi vị Thiên nhân Sudhammā, sau khi thực hiện nghiệp gì ở cõi người thì được sanh lên (Thiên cung) Sudhammā?”
981. “Người nào bố thí ngôi nhà mía, ngôi nhà cỏ, và ngôi nhà vải, sau khi bố thí một trong ba việc này thì được sanh lên (Thiên cung) Sudhammā.”
Thiên Cung Long Tượng thứ ba.
982. “Với cây cung vững chắc, ngươi đứng, tựa vào cây cung bằng gỗ lõi. Vậy ngươi là vị Sát-đế-lỵ con của đức vua, hay là thợ săn sống ở rừng?”
983. “Thưa ngài, tôi là con trai của vị chúa tể xứ Assaka, sống ở rừng. Thưa vị tỳ khưu, tôi nói với ngài tên của tôi; mọi người đã biết tôi là ‘Sujāta.’
984. Trong khi tìm kiếm các con thú rừng, trong khi đi sâu vào khu rừng bao la, và tôi đã không nhìn thấy con nai ấy; sau khi nhìn thấy ngài, tôi đã đứng lại.”
985. “Này người có phước báu lớn lao, việc đi đến của ngươi là tốt đẹp, hơn nữa đối với ngươi không phải là việc đi đến sai trái. Ngươi hãy lấy nước từ nơi này, rồi rửa sạch các bàn chân của ngươi.
986. Còn đây là nước uống mát lạnh đã được mang lại từ hang núi. Này hoàng tử, từ nơi ấy, sau khi uống xong, ngươi hãy đến ngồi ở tấm trải này.”
987. “Thưa bậc đại hiền trí, lời nói của ngài quả là tốt lành, nên được lắng nghe, không sai sót, và có lợi ích, ngọt ngào; ngài nói điều lợi ích sau khi đã suy xét.
988. Ngài có niềm vui thú gì trong khi sống ở rừng? Thưa vị chúa của các bậc ẩn sĩ, đã được hỏi, xin ngài hãy nói. Sau khi lắng nghe đường lối trình bày của ngài, chúng tôi tự thực hành mục đích và đạo lộ của Giáo Pháp.”
989. “Này hoàng tử, sự không hãm hại tất cả các sanh mạng khiến chúng tôi vui thích, và sự kiêng cữ về việc trộm cắp, tà hạnh, và uống chất say.
990. Sự kiêng cữ, sự hành thiện, sự nghe nhiều, sự biết ơn về việc đã làm, là được khen ngợi ngay trong hiện tại; các pháp này là đáng được khen ngợi.
991. Này hoàng tử, ngươi hãy nhận biết rằng trong vòng năm tháng, cái chết sẽ cận kề ngươi, ngươi hãy giải thoát bản thân.”
992. “Tôi nên đi đến xứ sở nào, (nên làm) việc gì và (phận sự) gì của người nam, hoặc là nhờ vào kiến thức gì tôi có thể trở thành không già không chết?”
993. “Này hoàng tử, lãnh địa ấy, việc làm, kiến thức, và (phận sự) của người nam, nơi mà sau khi đi đến con người có thể trở thành không già không chết thì không có.
994. Những người có tài sản lớn, có của cải lớn, thậm chí những Sát-đế-lỵ cai quản vương quốc, có dồi dào tài sản và lúa gạo, ngay cả những người ấy cũng không trở thành không già không chết.
995. Nếu ngươi đã được nghe về những người con trai của Andhakaveṇhu là dũng cảm, anh hùng, có sự chiến đấu mãnh liệt, ngay cả các vị ấy, (trong khi) được xem là trường cửu, cũng đã đạt đến sự cạn kiệt của tuổi thọ, cũng bị tiêu hoại.
996. Các vị Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, thương buôn, nô lệ, hạ tiện, hốt rác, những người này và những người khác là do sự sanh ra, ngay cả những người ấy cũng không trở thành không già không chết.
997. Những người nào trì tụng chú thuật (Vệ Đà) gồm sáu phần đã được nghĩ ra bởi đấng Tạo Hóa, những người này và những người khác là do kiến thức, ngay cả những người ấy cũng không trở thành không già không chết.
998. Hoặc ngay cả những vị ẩn sĩ là các đạo sĩ khổ hạnh, có sự an tịnh, có bản thân đã được kiềm chế, ngay cả những vị đạo sĩ khổ hạnh ấy cũng lìa bỏ cơ thể theo thời gian.
999. Ngay cả những vị A-la-hán có bản thân đã được tu tập, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc, cũng quăng bỏ thân xác này do sự diệt tận của thiện và ác.”
1000. “Thưa vị đại hiền trí, các câu kệ ngôn của ngài là khéo được nói lên, có sự lợi ích. Tôi được thuyết phục vì điều đã được khéo thuyết, và xin ngài hãy là nơi nương nhờ của tôi.”
1001. “Ngươi chớ đi đến nương nhờ ta, hãy tiến đến nương nhờ chính vị ấy, người con trai dòng Sakya, bậc Đại Anh Hùng, người mà ta đã đi đến nương nhờ.”
1002. “Thưa ngài, bậc Đạo Sư ấy của ngài là ở xứ sở nào? Tôi cũng sẽ đi để diện kiến đấng Chiến Thắng, bậc không người đối thủ.”
1003. “Với sự xuất thân từ dòng tộc Okkāka ở xứ sở thuộc về phía đông, Ngài đã là bậc siêu nhân ở nơi ấy, và Ngài quả thật đã viên tịch Niết Bàn.”
1004. “Thưa ngài, nếu đức Phật, bậc Đạo Sư của Ngài còn hiện tiền, tôi có thể đi hàng ngàn do-tuần để hầu cận.
1005. Thưa ngài, chính vì bậc Đạo Sư của Ngài đã viên tịch Niết Bàn, tôi cũng đi đến nương nhờ bậc Đại Anh Hùng mặc dầu Ngài đã Niết Bàn.
1006. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, luôn cả Giáo Pháp vô thượng, và tôi đi đến nương nhờ Hội Chúng thuộc về vị Trời của nhân loại.
1007. Tôi lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, tôi không nói lời dối trá, và tôi vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”
1008. “Tựa như vật có ngàn ánh hào quang (mặt trời), giống như ánh sáng vĩ đại, trong khi di chuyển theo quỹ đạo ở bầu trời, chiếu sáng như thế nào, bằng cách thức như thế ấy, cỗ xe vĩ đại này của ngươi được trải dài bảy do tuần ở xung quanh.
1009. Được phủ lên toàn bộ với những mảnh vàng; ngực của cỗ xe này được tô điểm với những viên ngọc trai, với những ngọc ma-ni; những nét khắc chạm của vàng và bạc, được làm bằng ngọc bích, đã khéo được biến hóa, khiến cho (cỗ xe) trở nên rực rỡ.
1010. Phần đầu này (của cái gọng xe) được cấu tạo bằng ngọc bích, và cái ách này được tô điểm với hồng ngọc, và còn thêm những con ngựa này, có tốc độ của ý, được thắng cương bằng vàng và bạc, chói sáng.
1011. Ngươi đây đứng ở cỗ xe bằng vàng, đã được khẳng định, tựa như vị Chúa của chư Thiên với cỗ xe một ngàn ngựa. Này vị có danh tiếng, ta hỏi ngươi, con người thông thái, làm thế nào ngươi đã đạt được (danh vọng) cao sang này?”
1012. “Thưa ngài, tôi tên là Sujāta. Trước đây, tôi đã là vị hoàng tử. Và ngài, do lòng thương tưởng, đã hướng dẫn tôi vào sự kiềm chế.
1013. Và sau khi biết tôi có tuổi thọ đã bị cạn kiệt, ngài trao cho (tôi) xálợi của bậc Đạo Sư (nói rằng): ‘Này Sujāta, hãy tôn vinh vật này; vật này sẽ đem lại lợi ích cho ngươi.’
1014. Sau khi tôn vinh vật ấy bằng những vật thơm, bằng những tràng hoa, tôi đây được hưng phấn. Sau khi lìa bỏ xác thân nhân loại, tôi được sanh lên (khu vườn) Nandana.
1015. Ở khu vườn Nandana đáng yêu, được những bầy chim khác nhau gắn bó, được tôn vinh bởi các tiên nữ, tôi thích thú với những điệu múa lời ca.”
Thiên Cung Cỗ Xe Nhỏ.
1016. “Ngươi bước lên cỗ xe xinh đẹp được tô điểm nhiều màu sắc này, chiếc xe ngựa được kéo bởi một ngàn con, đang di chuyển lân cận khu vực vườn hoa, (ngươi) tựa như Vāsava, vị Chúa của chư Thiên, đấng chủ tể của các sanh linh.
1017. Cả hai bên sườn cỗ xe của ngươi được làm bằng vàng, được kết hợp chặt chẽ với những thanh đứng và những thanh ngang, có cái khung được tạo ra khéo léo, đã được hoàn tất bởi nghệ nhân bậc thầy; (cỗ xe) chói sáng tựa như mặt trăng ngày rằm.
1018. Được phủ lên với mạng lưới bằng vàng, được tô điểm với nhiều loại châu ngọc khác nhau, có âm thanh vô cùng vui tai, và vô cùng rực rỡ, cỗ xe này chói sáng với những cánh tay và bàn tay (đang phe phẩy) những cây phất trần.
1019. Và các ổ trục này (của các bánh xe) đã được biến hóa ra bởi ý, được trang hoàng ở khoảng giữa bên trong các chân của cỗ xe; và các ổ trục này được tô điểm với hàng trăm nét vẽ, chúng chiếu sáng với hàng trăm tia sáng, tựa như tia chớp.
1020. Cỗ xe này được trải lên với vô số tranh vẽ, và vành bánh xe là to rộng có ngàn ánh hào quang; âm thanh của chúng có nét dễ thương được nghe tựa như nhạc cụ gồm năm loại đã được tấu lên.
1021. Đã được tô điểm ở phần đầu, được sửa soạn với mặt trăng bằng ngọc ma-ni, luôn luôn được trong sạch, đáng yêu, rực rỡ, được kết hợp dày đặc với các tia sáng bằng vàng, (cỗ xe) chói sáng nổi bật, tựa như có các tia sáng màu ngọc bích.
1022. Và những con ngựa này, được sửa soạn với mặt trăng bằng ngọc ma-ni, cao to, có tốc độ nhanh, tương xứng với số đông, khổng lồ, vĩ đại, có sức mạnh, có tốc lực lớn lao, sau khi biết được tâm ý của ngươi, chúng di chuyển theo y như thế.
1023. Và tất cả những con vật bốn chân này đã được phối hợp, sau khi biết được tâm ý của ngươi chúng di chuyển theo y như thế. Chúng kéo (cỗ xe) một cách đồng đều, chúng nhu thuận, không náo động, vui tính, là hạng nhất trong các loài ngựa.
1024. Chúng giũ (lông), phi nhanh, phóng vào khoảng không, trong lúc làm rung chuyển dữ dội các vật trang sức đã khéo được thực hiện; âm thanh của chúng có nét dễ thương được nghe tựa như nhạc cụ gồm năm loại đã được tấu lên.
1025. Âm vang của cỗ xe và của những vật trang sức, tiếng gầm của vó ngựa và của tiếng hí vang, âm thanh vô cùng dễ thương của (đám đông) đã hội tụ lại được nghe (tựa như) những nhạc cụ của các nhạc sĩ Thiên đình ở khu rừng nhiều màu sắc.
1026. Các nàng (tiên nữ) ấy đứng ở cỗ xe, có những cặp mắt lim dim của loài nai, có hàng mi dày, cười đùa, có lời nói đáng yêu, được che phủ với mạng lưới bằng ngọc bích, có làn da mảnh mai, vẫn luôn luôn được tôn vinh bởi các nhạc sĩ Thiên đình và các vị đứng đầu chư Thiên.
1027. Các nàng ấy, với tấm vải màu đỏ và y phục màu vàng quyến rũ, có cặp mắt to, với con mắt đỏ rực, đã được sanh ra tốt đẹp ở dòng dõi cao sang, có thân hình xinh xắn, có nụ cười vô tư, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
1028. Các nàng ấy có mang vòng xuyến bằng vàng, có y phục đẹp, có vòng eo đẹp, đùi và ngực đầy đặn, có các ngón tay tròn, khuôn mặt đẹp, có nét xinh xắn, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
1029. Những nàng khác, trẻ trung, có những bím tóc đẹp, có các sợi tóc được tết vào nhau, và (những cuộn tóc) được phân chia đồng đều, rực rỡ. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ý định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
1030. Các nàng có những vòng hoa đội đầu được phủ lên với các sen hồng sen xanh, đã được trang điểm, đã được bôi thơm với tinh chất của trầm hương. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ý định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
1031. Các nàng ấy có những tràng hoa được phủ lên với các sen hồng sen xanh, đã được trang điểm, đã được bôi thơm với tinh chất của trầm hương. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ý định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
1032. Các vật trang sức ở cổ, ở các bàn tay, ở các bàn chân, tương tự y như thế ở đầu, khiến cho mười phương chiếu sáng toàn bộ, tựa như mặt trời mùa thu đang mọc lên.
1033. Và bị lay động bởi lực đẩy của làn gió, các tràng hoa và các vật trang sức ở các cánh tay phát ra âm thanh đáng yêu, trong trẻo, mỹ miều, có vẻ đáng được lắng nghe bởi tất cả những người có sự nhận thức.
1034. Này vị chúa của chư Thiên, các cỗ xe và những con long tượng đứng ở hai bên tại khu đất của vườn hoa, cùng các nhạc cụ và âm thanh làm cho chính ngươi được vui thích, giống như cây đàn vīṇā với mặt đàn, bầu đàn, và cần đàn (làm mọi người được vui thích).
1035. Này vị chúa tể, trong khi các cây đàn vīṇā này, gồm nhiều loại, dễ thương, có hình dáng làm hài lòng, đang được tấu lên dồn dập, gây xáo động trái tim, các nàng tiên nữ, các cô gái đã được học tập, nhởn nhơ giữa các đóa sen.
1036. Và khi các bài ca, các khúc nhạc, và các vũ công này hợp chung lại thành một, khi ấy ở nơi này họ nhảy múa, khi ấy ở nơi này các tiên nữ, những phụ nữ cao quý đang làm cho cả hai nơi chiếu sáng.
1037. Ngươi đây vui thích, với sự đánh thức bởi các nhóm nhạc cụ, trong khi đang được nể vì tựa như vị (thần Inda) có tia sét là vũ khí. Này vị chúa tể, có sự gây xáo động trái tim ở nơi các cây đàn vīṇā gồm nhiều loại, dễ thương, có hình dáng làm hài lòng này.
1038. Trước đây, ngươi đã tự mình tạo nghiệp gì, khi là con người ở kiếp sống trước đây? Hay là ngươi đã hành trì ngày trai giới nào, đã say mê sự thực hành pháp, sự hành trì nào?
1039. Năng lực thần thông lớn lao này của ngươi, điều này không phải là của nghiệp nhỏ nhoi đã được làm, hoặc của ngày trai giới đã được hoàn thành tốt đẹp trong quá khứ, bởi vì ngươi tỏa sáng vượt trội hội chúng chư Thiên.
1040. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hãy giải thích điều ấy cho ta.”
1041. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã nói rõ quả báo này là của nghiệp nào:
1042. “Đức Phật Kassapa, vị có giác quan đã được chế ngự, có sự ra đi tuyệt vời, đấng Tối Thượng Nhân, nhân vật cao cả, bậc đang mở ra cánh cửa Bất Tử ấy, vị Trời vượt trội các vị Trời, có trăm dấu hiệu phước báu.
1043. Tôi đã nhìn thấy Ngài, đấng Khổng Tượng, người đã vượt qua dòng nước lũ, tương tự hình tượng bóng láng bằng vàng. Sau khi nhìn thấy Ngài, sau khi nhìn thấy chính biểu hiện của (Giáo Pháp) đã khéo được thuyết giảng ấy, tôi đã tức thời trở nên có tâm ý trong sạch.
1044. Ở nơi trú ngụ của mình đã được trải lót bông hoa, tôi đây, với tâm ý không có sự ràng buộc, đã cống hiến đến Ngài cơm ăn, nước uống, và luôn cả y phục sạch sẽ, hảo hạng, được thành tựu phẩm chất.
1045. Sau khi làm toại ý bậc Tối Thượng của các loài hai chân ấy với cơm ăn, với nước uống, và với y phục, với vật nhai, với thức ăn, và với cao lương mỹ vị, tôi đây vui sướng ở thành phố của chư Thiên theo tuần tự của các cõi Trời.
1046. Bằng cách thức này, sau khi dâng hiến việc hiến dâng này không có sự ngần ngại, được trong sạch theo ba cách, sau khi lìa bỏ xác thân nhân loại, tôi vui sướng ở thành phố của chư Thiên tương tự như vị Thần Inda.
1047. Thưa bậc hiền trí, người đang mong mỏi tuổi thọ, sắc đẹp, hạnh phúc, và sức mạnh có hình thức hảo hạng, nên cống hiến nhiều cơm ăn nước uống đã khéo được chuẩn bị ở bậc có tâm ý không có sự ràng buộc.
1048. Ở thế gian này hay là ở đời kế tiếp đi nữa, người đã đi đến trạng thái nên được hiến cúng, xứng đáng với sự hiến cúng tối thượng, (đã đi đến) sự tồn tại ở quả báo to lớn đối với những người mong mỏi phước báu, người là bậc tốt hơn hay tương đương với đức Phật không được biết đến.”
Thiên Cung Cỗ Xe Lớn.
Phẩm Cỗ Xe Lớn là thứ năm.
*****
Tóm Lược Phẩm Này
(Chuyện Thiên tử) Ếch, Revatī, Chatta, (xúp) cua, người giữ cửa, hai việc nên làm, hai (chuyện) cây kim, ba (chuyện) long tượng, và hai (chuyện) cỗ xe; được gọi là phẩm thứ nhất của những người nam.”
--ooOoo--
1049. “Khu vườn Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cõi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, thì Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.
1050. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1051. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1052. “Ở thế giới loài người, tôi và người vợ đã sống tại gia, là nguồn cung ứng (vật chất). Có tâm tịnh tín, chúng tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí cơm ăn và nước uống dồi dào.
1053. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1054. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Tại Gia.
1055. “Khu vườn Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cõi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, thì Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.
1056. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?” 1057. So devaputto attamano moggallānena pucchito, pañhaṃ puṭṭho viyākāsi yassa kammassidaṃ phalaṃ.
1057. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1058. “Ở thế giới loài người, tôi và người vợ đã sống tại gia, là nguồn cung ứng (vật chất). Có tâm tịnh tín, chúng tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí cơm ăn và nước uống dồi dào.
1059. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1060. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Tại Gia thứ nhì.
1061. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười sáu do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
1062. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Còn có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cõi Ba Mươi (Ba), cao sang, đã được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển.
1063. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1064. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1065. “Người bố thí trái cây đạt được quả báo dồi dào trong khi bố thí với tâm ý thanh tịnh đến những vị đã thực hành nghiêm chỉnh, chính người ấy, đã đi đến cõi Trời, vui sướng ở cõi Ba Mươi (Ba). Thưa bậc đại hiền trí, tương tự y như thế, tôi đã dâng cúng bốn trái cây, và tôi thọ hưởng quả phước dồi dào.
1066. Chính vì thế, là quá đủ để người mong cầu hạnh phúc bố thí trái cây thường xuyên, là người đang ước nguyện các hạnh phúc thuộc cõi Trời, hay là đang mong muốn trạng thái giàu sang thuộc loài người.
1067. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1068. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Trái Cây.
1069. “Giống như mặt trăng di chuyển ở không trung, đang chói sáng ở bầu trời có đám mây đen đã được tản mác, tương tự như thế ấy Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng.
1070. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1071. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1072. “Ở thế giới loài người, tôi và người vợ đã sống tại gia, đã bố thí chỗ ngụ đến vị A-la-hán. Có tâm tịnh tín, chúng tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí cơm ăn và nước uống dồi dào.
1073. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1074. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Chỗ Ngụ thứ nhất.
1075. “Giống như mặt trời di chuyển ở không trung, đang chói sáng ở bầu trời có đám mây đen đã được tản mác, Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế.
1076. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1077. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1078. “Ở thế giới loài người, tôi và người vợ đã sống tại gia, đã bố thí chỗ ngụ đến vị A-la-hán. Có tâm tịnh tín, chúng tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí, cơm ăn và nước uống dồi dào.
1079. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1080. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Chỗ Ngụ thứ nhì.
1081. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
1082. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1083. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1084. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu bị run rẩy, mệt nhọc, tôi đã cung cấp trọn phần ăn một ngày, khi ấy tôi đã thực hiện bằng bữa ăn thuộc sở hữu (của mình).
1085. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1086. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Bố Thí Vật Thực.
1087. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười sáu do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
1088. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Còn có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cõi Ba Mươi (Ba), cao sang, đã được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển.
1089. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1090. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1091. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người canh giữ lúa mạch. Tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động.
1092. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng phần chia (đã nhận được) đến vị ấy. Sau khi dâng cúng miếng bánh kem, tôi vui hưởng ở khu vườn Nandana (thuộc cõi Trời).
1093. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1094. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Canh Giữ Lúa Mạch.
1095. “Ngươi đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, có bông tai khéo, có tóc râu đã được sửa soạn, có đồ trang sức ở bàn tay đã được trau chuốt, có danh tiếng, giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cõi Trời.
1096. Còn có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cõi Ba Mươi (Ba), cao sang, đã được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển.
1097. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1098. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1099. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, sau khi nhìn thấy các vị Samôn có giới hạnh, có kiến thức và hạnh kiểm đã được thành tựu, có danh tiếng, nghe nhiều, đã đạt đến sự cạn kiệt tham ái, có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
1100. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1101. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Có Bông Tai thứ nhất.
1102. “Ngươi đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, có bông tai khéo, có tóc râu đã được sửa soạn, có đồ trang sức ở bàn tay đã được trau chuốt, có danh tiếng, giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cõi Trời.
1103. Còn có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cõi Ba Mươi (Ba), cao sang, đã được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển.
1104. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1105. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1106. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, sau khi nhìn thấy các vị Samôn có dáng vóc nghiêm trang, có kiến thức và hạnh kiểm đã được thành tựu, có danh tiếng, nghe nhiều, đã đạt đến việc có giới hạnh, có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
1107. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1108. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Người Có Bông Tai thứ nhì.
1109. Hội trường Sudhammā của đức Thiên Vương là nơi hội chúng chư Thiên có sự hợp nhất, tương tự như thế ấy Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng.
1110. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1111. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1112. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người thanh niên Bà-lamôn của đức vua Pāyāsi, sau khi tiếp nhận phần của cải tôi đã thực hiện việc phân phối. Và các bậc có giới hạnh đã được tôi quý mến; có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
1113. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1114. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung của Uttara.
Phẩm Pāyāsi là thứ sáu.
*****
Tóm Lược Phẩm Này
Hai (chuyện) người tại gia, người bố thí trái cây, hai (chuyện) người bố thí chỗ ngụ, người bố thí vật thực, và luôn cả người canh giữ lúa mạch, hai (chuyện) người có bông tai, (đức vua) Pāyāsi; được gọi là phẩm thứ nhì của những người nam.”
--ooOoo--
1115. “Khu vườn Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cõi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, thì Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.
1116. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1117. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1118. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người làm công nghèo khó, khốn khổ, không nơi nhờ cậy, và tôi đã phụng dưỡng mẹ cha già nua. Và các bậc có giới hạnh đã được tôi quý mến; có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
1119. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1120. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Cittalatā.
1121. “Khu vườn Nandana và Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cõi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, thì Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.
1122. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?” 1123. So devaputto attamano moggallānena pucchito, pañhaṃ puṭṭho viyākāsi yassa kammassidaṃ phalaṃ.
1123. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1124. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người làm công nghèo khó, khốn khổ, không nơi nhờ cậy, và tôi đã phụng dưỡng mẹ cha già nua. Và các bậc có giới hạnh đã được tôi quý mến; có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
1125. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1126. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Nandana.
1127. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
1128. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
1129. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
1130. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1131. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1132. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, tôi đã làm lối kinh hành ở đường đi nơi bìa rừng, và tôi đã trồng các cây ở tu viện. Và các bậc có giới hạnh đã được tôi quý mến; có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
1133. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1134. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung có Cây Trụ Bằng Ngọc Ma-ni.
1135. Thiên cung, ở ngọn núi bằng vàng, được che phủ với màng lưới bằng vàng, được sắp đặt màng lưới chuông leng keng, đang chiếu sáng khắp mọi nơi.
1136. Các cây cột có tám mặt đã khéo được thực hiện, tất cả được làm bằng ngọc bích, ở mỗi một mặt, bảy loại châu báu đã được hóa hiện ra.
1137. Ngọc bích, vàng, ngọc pha-lê, và ngọc ru-bi, với các viên ngọc mắt mèo, ngọc trai, và các viên ngọc ma-ni màu đỏ.
1138. Mặt nền đa dạng, làm thích ý, ở nơi đó bụi bặm không bốc lên, những cụm đà cong màu vàng, được hóa hiện ra, nâng đỡ mái nhọn.
1139. Và bốn bực cấp được hóa hiện ra ở bốn phía, với các gian phòng có nhiều loại châu ngọc khác nhau, chói sáng tựa như mặt trời.
1140. Ở nơi ấy, bốn rào chắn được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.
1141. Ở Thiên cung quý cao ấy, vị Thiên tử có ánh sáng vĩ đại, sáng chói vượt trội nhờ vào màu da, tựa như mặt trời đang mọc lên.
1142. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hãy giải thích điều ấy cho ta.”
1143. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1144. “Được tịnh tín, tôi đã tự tay cho xây dựng ở Andhakavinda ngôi trú xá dành cho đức Phật, vị thân quyến của mặt trời, bậc Đạo Sư.
1145. Ở nơi ấy, với tâm ý thanh tịnh tôi đã dâng cúng vật thơm, tràng hoa, dầu thoa giá trị, và ngôi trú xá đến bậc Đạo Sư.
1146. Do việc ấy, điều này đã đạt được cho tôi; tôi vận hành quyền lực ở Nandana. Ở khu vườn Nandana đáng yêu, được những bầy chim khác nhau gắn bó, được tôn vinh bởi các tiên nữ, tôi thích thú với những điệu múa lời ca.”
Thiên Cung Bằng Vàng.
1147. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
1148. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
1149. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
1150. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1151. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1152. “Vào tháng cuối cùng của mùa nóng, khi mặt trời đang đốt nóng, người đàn ông, kẻ làm thuê cho những người khác, đã tưới nước vườn xoài.
1153. Khi ấy, vị tỳ khưu nổi tiếng ‘Sāriputta’ đã đi đến nơi ấy, với dáng vẻ mệt nhọc ở cơ thể nhưng không chút mệt nhọc ở tâm ý.
1154. Và sau khi nhìn thấy vị ấy đang tiến đến, người tưới xoài đã nói rằng: ‘Thưa ngài, tốt lành thay (nếu) tôi có thể tắm cho ngài, việc ấy là sự đem lại hạnh phúc cho tôi.’
1155. Vì lòng thương tưởng đến tôi đây, vị ấy đã đặt y và bình bát xuống, rồi đã ngồi xuống ở gốc cây, nơi bóng râm, (mặc) một y.
1156. Và với tâm tịnh tín, người đàn ông, với nước sạch, đã tắm cho vị ấy, (mặc) một y, ở gốc cây, nơi bóng râm.
1157. ‘Cây xoài đã được tưới nước và vị Sa-môn đã được tắm; còn phước báu đã được tôi tạo ra không phải là ít.’ (Suy nghĩ) như thế, người ấy làm lan tỏa toàn bộ cơ thể của bản thân với niềm hỷ lạc.
1158. Trong kiếp sống ấy, tôi đã tạo chính nghiệp ấy chỉ có bấy nhiêu. Sau khi lìa bỏ xác thân nhân loại, tôi được sanh lên (khu vườn) Nandana.
1159. Ở khu vườn Nandana đáng yêu, được những bầy chim khác nhau gắn bó, được tôn vinh bởi các tiên nữ, tôi thích thú với những điệu múa lời ca.”
Thiên Cung Cây Xoài.
1160. Sau khi nhìn thấy vị Thiên nhân có đồ trang sức ở bàn tay đã được trau chuốt, có danh tiếng, ở tòa lâu đài cao ráo, có sự tồn tại lâu dài, cũng giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cõi Trời, vị tỳ khưu đã hỏi rằng:
1161. “Ngươi đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, có bông tai khéo, có tóc râu đã được sửa soạn, có đồ trang sức ở bàn tay đã được trau chuốt, có danh tiếng, giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cõi Trời.
1162. Còn có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cõi Ba Mươi (Ba), cao sang, đã được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển.
1163. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1164. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1165. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã gom lại các con bò cái của những người khác rồi canh giữ. Và sau đó, có vị Sa-môn đã đi đến gần tôi. Và các con bò đã đi đến để ăn những cây đậu.
1166. ‘Hôm nay, có hai phận sự, và cả hai đều cần phải làm.’ Thưa ngài, khi ấy tôi đã suy nghĩ y như thế. Kế đó, sau khi đã đạt được ý nghĩ đúng đắn, tôi đã đặt mảnh giẻ (gói miếng bánh, nói rằng): ‘Thưa ngài, tôi xin dâng.’
1167. Tôi đây đã vội vã đi xuống ruộng đậu trước khi con bò này làm hư hại tài sản này của ai đó. Và kế đó, có con rắn màu đen có nọc độc dữ tợn đã cắn ở bàn chân của tôi trong khi tôi đang vội vã.
1168. Tôi đây bị đau đớn, bị hành hạ bởi khổ đau. Và vị tỳ khưu sau khi tự thân mở ra mảnh giẻ (gói miếng bánh) ấy, đã nuốt vào miếng bánh kem, vì lòng thương tưởng đối với tôi. Từ nơi ấy, tôi đã chết, đã từ trần, và trở thành Thiên nhân.
1169. Chính hành động thiện ấy đã được tôi tạo ra, và tôi thọ hưởng nghiệp an lạc tự chính mình. Thưa ngài, bởi vì tôi đã được ngài thương tưởng thật nhiều, tôi xin đảnh lễ (ngài) với lòng tri ân.
1170. Ở thế gian luôn cả chư Thiên và luôn cả Ma Vương, không có vị hiền trí nào khác là người có lòng thương tưởng hơn ngài. Thưa ngài, bởi vì tôi đã được ngài thương tưởng thật nhiều, tôi xin đảnh lễ (ngài) với lòng tri ân.
1171. Ở thế gian này hay là ở đời kế tiếp đi nữa, không có vị hiền trí nào khác là người có lòng thương tưởng hơn ngài. Thưa ngài, bởi vì tôi đã được ngài thương tưởng thật nhiều, tôi xin đảnh lễ (ngài) với lòng tri ân.”
Thiên Cung của Người Chăn Bò.
1182. Các sắc thuộc cõi Trời với nhiều hình thức là thuộc về ngươi, các thinh thuộc cõi Trời, rồi các vị, các hương, và các xúc thích ý được dành riêng cho ngươi.
1183. Này vị Thiên tử, ở Thiên cung quý cao ấy, ngươi có ánh sáng vĩ đại, sáng chói vượt trội nhờ vào màu da, tựa như mặt trời đang mọc lên.
1184. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hãy giải thích điều ấy cho ta.”
1185. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1186. “Ở kinh thành Kapilavatthu của những người Sakya, tôi đã là (con ngựa) Kanthaka, được sanh đồng thời với người con trai của (đức vua) Suddhodana.
1187-1188. Vào lúc nửa đêm, vị ấy đã ra đi vì sự Giác Ngộ. Vị ấy, với hai bàn tay mềm mại, có màng lưới, và các móng tay màu đồng, đã vỗ vào đùi của tôi và đã nói rằng: ‘Này bạn, hãy đưa (ta) đi. Đạt được quả vị Giác Ngộ tối thượng, ta sẽ giúp cho thế gian vượt qua.’
1189. Niềm vui bao la đã có cho tôi trong khi tôi đang lắng nghe câu nói ấy. Với tâm phấn khởi, với thiện ý, khi ấy tôi đã mong cầu.
1190. Và sau khi biết được người con trai dòng Sakya, có danh tiếng lớn lao, đã cỡi lên tôi, với tâm phấn khởi, được hoan hỷ, tôi đã đưa bậc tối thượng nhân đi.
1191. Sau khi đi đến lãnh thổ của những người khác, khi mặt trời đã mọc lên, sau khi bỏ lại tôi và Channa, vị ấy đã bỏ đi, không đoái hoài.
1192. Bằng lưỡi, tôi đã liếm quanh hai bàn chân có móng chân màu đồng của vị ấy, và đã khóc lóc nhìn theo vị đại anh hùng đang ra đi.
1193. Do việc không còn nhìn thấy người con trai dòng Sakya vinh quang ấy, tôi đã nhận lấy cơn bệnh trầm trọng; cái chết đã nhanh chóng xảy đến cho tôi.
1194. Do nhờ năng lực của chính việc ấy, tôi trú ngụ tại Thiên cung này, có đủ tất cả các loại dục, và ở thành phố chư Thiên thuộc cõi Trời.
1195. Và việc tôi đã có niềm vui sau khi nghe được âm thanh của từ giác ngộ; do chính thiện căn ấy, tôi sẽ chạm đến sự cạn kiệt các lậu hoặc.
1196. Thưa ngài, bởi vì nếu ngài đi đến gặp đức Phật, bậc Đạo Sư, xin ngài hãy nói với Vị ấy luôn cả lời nói của tôi về việc đê đầu đảnh lễ (của tôi).
1197. Tôi cũng sẽ đi để diện kiến đấng Chiến Thắng, bậc không người đối thủ; việc gặp gỡ các đấng Bảo Hộ Thế Gian như thế ấy là điều khó đạt được.”
1198. Vị (Thiên tử) ấy có sự tri ân, có sự hiểu biết về việc đã được làm, đã đi đến gặp bậc Đạo Sư. Sau khi lắng nghe lời nói của đấng Hữu Nhãn, vị ấy đã làm trong sạch Pháp nhãn.
1199. Sau khi đã làm trong sạch việc sa vào (tà) kiến, hoài nghi, và (sự cố chấp vào) các nghi thức, vị ấy đã đảnh lễ hai bàn chân của bậc Đạo Sư rồi đã biến mất ngay tại chỗ ấy.
Thiên Cung của Kanthaka.
1200. “Sau khi đã đạt đến Thiên cung được tô điểm theo nhiều cách, có nhiều màu sắc, có sự tiêu diệt nỗi buồn bực và sầu muộn, ngươi được tùy tùng bởi đoàn tiên nữ, vui sướng tựa như Sunimmita, vị chúa tể của chúng sinh.
1201. Không có vị sánh bằng như vậy; hơn nữa người vượt trội về danh tiếng, phước báu, và thần thông thì từ đâu mà có?
1202. Và tất cả chư Thiên, các nhóm ở cõi Ba Mươi (Ba), sau khi tụ hội lại sẽ lễ bái ngươi đây, tựa như chư Thiên lễ bái mặt trăng. Và ngươi có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển ở xung quanh.
1203. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
1204. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1205. “Thưa ngài đại đức, vào thời quá khứ tôi đã là đệ tử của đấng Chiến Thắng tên Sumedha. Tôi còn là phàm nhân, chưa được giác ngộ; tôi đây đã xuất gia bảy năm.
1206. Lúc đấng Chiến Thắng, bậc Đạo Sư Sumedha, vị đã vượt qua các dòng lũ như thế ấy, viên tịch Niết Bàn, tôi đây, sau khi đảnh lễ khối châu báu được che phủ bởi mạng lưới bằng vàng, đã làm cho tâm ý được tịnh tín ở ngôi bảo tháp.
1207. Sự bố thí của tôi là không có, tôi không có gì để bố thí. Tuy nhiên, tại nơi ấy tôi đã khuyến khích những người khác rằng: ‘Quý vị hãy cúng dường xá-lợi ấy của bậc xứng đáng cúng dường, như vậy nghe nói quý vị sẽ từ nơi đây đi đến cõi Trời.’
1208. Chính nghiệp thiện ấy đã được tạo ra bởi tôi. Và tôi thụ hưởng sự an lạc thuộc cõi Trời bởi chính bản thân. Tôi vui sướng giữa nhóm (chư Thiên) ở cõi Ba Mươi (Ba). Tôi còn chưa đi đến sự cạn kiệt của phước báu ấy.”
Thiên Cung Nhiều Màu Sắc.
1209. “Ngươi đã được trang điểm, có bông tai đã được đánh bóng, có mang tràng hoa, có bôi xức trầm hương màu vàng, sau khi giơ hai cánh tay lên rồi than khóc ở giữa khu rừng, ngươi bị khổ đau điều gì?”
1210. “Khung xe làm bằng vàng, rực rỡ, được phát sanh lên cho tôi. Tôi không tìm ra cặp bánh xe cho nó. Vì nỗi khổ đau ấy, tôi sẽ từ bỏ mạng sống.”
1211. “Nó làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng hồng ngọc, hay làm bằng bạc? Này người thanh niên hiền thiện, ngươi hãy nói với ta. Ta sẽ giúp cho ngươi đạt được cặp bánh xe.”
1212. Người thanh niên ấy đã nói với ông ấy rằng: “Ở đây, mặt trăng và mặt trời được nhìn thấy; cỗ xe của tôi, làm bằng vàng, được chói sáng với cặp bánh xe ấy.”
1213. “Này người thanh niên, ngươi quả thật cũng khờ dại, ngươi mong mỏi vật không thể mong mỏi. Ta nghĩ rằng ngươi sẽ chết bởi vì ngươi sẽ không đạt được mặt trăng và mặt trời.”
1214. “Việc đi và đến (của mặt trăng và mặt trời) còn được nhìn thấy. Ở đây, màu sắc và bản chất của cả hai là theo trình tự. Trái lại, người chết, đã qua đời, không được nhìn thấy. Vậy ở đây, trong hai người đang khóc lóc, người nào khờ dại hơn?”
1215. “Này người thanh niên, quả nhiên ngươi nói đúng sự thật. Trong hai người đang khóc lóc, chính ta là khờ dại hơn. Ta đang mong mỏi người chết, đã qua đời, ví như đứa bé trai đang khóc đòi mặt trăng.
1216. Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
1217. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của tôi.
1218. Chính tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có trạng thái mát lạnh, đã được an tịnh. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe ngươi tôi không sầu muộn, không khóc lóc.
1219. Phải chăng ngươi là Thiên nhân, là nhạc sĩ Thiên đình, hay là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây? Ngươi là ai, hay là con trai của ai, làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết ngươi?”
1220. “Đứa con trai nào mà ông đã tự mình thiêu đốt ở nơi hỏa táng, rồi than vãn và khóc lóc, người ấy chính là tôi; sau khi làm việc thiện, tôi đã đạt đến sự cộng trú ở cõi Ba Mươi (Ba).”
1221. “Chúng tôi đã không nhìn thấy vật thí ít hay nhiều của ngươi trong khi ngươi bố thí ở nhà mình, hay việc làm vào ngày trai giới tương tự như thế ấy; do nghiệp nào mà ngươi đã đi đến thế giới của chư Thiên?”
1222. “Tôi là người có bệnh, bị khổ sở, là người bệnh, có dáng vóc bệnh hoạn ở trong căn nhà của mình. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc đã xa lìa ô nhiễm, vị đã vượt qua hoài nghi, đấng Thiện Thệ, có trí tuệ tuyệt vời.
1223. Chính tôi đây, với ý vui mừng, với tâm tịnh tín, đã thực hiện việc chắp tay đến đức Như Lai. Sau khi làm việc thiện ấy, tôi đã đạt đến sự cộng trú ở cõi Ba Mươi (Ba).”
1224. “Thật là kỳ diệu, phi thường! Quả thành tựu này của việc chắp tay là như thế. Tôi cũng vậy, với ý vui mừng, với tâm tịnh tín, tôi đi đến nương nhờ đức Phật ngay ngày hôm nay.”
1225. “Ngay ngày hôm nay, với tâm tịnh tín ông hãy đi đến nương nhờ đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng. Tương tự y như thế, ông hãy thọ trì năm điều học không bị bể vỡ hay sứt mẻ.
1226. Ông hãy lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, hãy xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, chớ có việc uống chất say và nói lời dối trá, và hãy vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”
1227. “Thưa vị Dạ-xoa, ngài là người mong mỏi sự tốt đẹp cho tôi. Thưa vị Thiên nhân, ngài là người mong mỏi sự lợi ích cho tôi. Tôi thực hành lời nói của ngài; ngài là thầy dạy học của tôi.
1228. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, luôn cả Giáo Pháp vô thượng, và tôi đi đến nương nhờ Hội Chúng thuộc về vị Trời của nhân loại.
1229. Tôi lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và tôi không nói lời dối trá, và tôi vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”
Thiên Cung của Maṭṭakuṇḍalī.
1230. Chúng ta hãy lắng nghe về sự gặp gỡ của vị Dạ-xoa và các người thương buôn đã xảy ra vào lúc ấy. Câu chuyện đã khéo được trao đổi bởi người này với người kia như thế nào, xin tất cả hãy lắng nghe câu chuyện ấy.
1231. Vị vua ấy tên là Pāyāsi, có danh tiếng, đã đi đến cộng trú với chư Thiên địa cầu. Ngay trong lúc đang vui thích ở Thiên cung của mình, vị phi nhân ấy đã nói với loài người rằng:
1232. “Ở khu rừng hiểm trở, nơi không có loài người, ở sa mạc, thiếu nước, thiếu thức ăn, nơi vô cùng khó đi, ở giữa đầm cát, nhiều người bị mất trí vì nỗi sợ hãi sự hiểm trở.
1233. Ở nơi đây, không có các trái cây, và các loại cây có rễ, không có củi lửa, lấy đâu ở đây có thức ăn, ngoại trừ nhiều bụi bặm, lắm cát, các sự thiêu đốt, các sự nóng bức, và các sự khắc nghiệt?
1234. Vùng sa mạc tựa như cái chảo đã được đốt nóng, không có lợi ích, tương đương với thế giới khác (địa ngục); chỗ trú ngụ này là của những kẻ hung dữ trước đây, là vùng đất bị nguyền rủa.
1235. Còn các người, vì nguyên nhân gì, trong khi đang mong mỏi điều gì, lại vội vã tập hợp rồi đi vào chính khu vực này, do lòng tham, do sự sợ hãi, hay là đã bị lầm lẫn?”
1236. “Các chủ đoàn xe ở xứ sở Magadha và Aṅga sau khi cho chất lên hàng hoá với số lượng dồi dào, những người ấy đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận.
1237. Vào ban ngày, do không chịu đựng được cơn khát và mãi quan tâm đến sự thương xót đối với các con vật kéo xe, tất cả chúng tôi di chuyển với tốc độ này và đến được con đường vào ban đêm, không đúng thời điểm.
1238. Đã khởi hành chậm trễ, đã bị lạc đường, bị rối loạn như người mù, đã bị lạc lối trong khu rừng, ở chỗ vô cùng khó đi, ở giữa đầm cát, chúng tôi đây không nhận ra phương hướng, có tâm bị hoang mang.
1239. Và thưa vị Dạ-xoa, sau khi nhìn thấy việc này, việc chưa được thấy trước đây, là Thiên cung hạng nhất và ngài, trong khi đang mong mỏi về mạng sống sau này, đến lúc nhìn thấy (ngài), chúng tôi trở nên mừng rỡ, có tâm ý vui vẻ, phấn khởi.”
1240. “Vì nguyên nhân của cải, quý vị đi đến những phương trời khác biệt, đến bờ bên kia của biển cả và đầm cát này, đến con đường có sự di chuyển với gậy chống và lối đi có cắm cọc, đến những con sông, thêm nữa là những con đường hiểm trở ở các ngọn núi.
1241. Này quý vị, sau khi tiến vào lãnh thổ của những người khác, trong khi ngắm nhìn những con người thuộc nhiều quốc độ, điều nào đã được quý vị nghe, hoặc nhìn thấy, hãy cho chúng tôi nghe điều kỳ diệu ấy từ quý vị.”
1242. “Thưa Thiên tử, điều kỳ diệu hơn thế này chúng tôi không được nghe hoặc nhìn thấy, tất cả đều vượt trội (thế giới) loài người, sau khi nhìn thấy chúng tôi chưa được thỏa mãn về vẻ đẹp tuyệt vời.
1243. Ở không trung có những hồ sen với vô số bông hoa, với nhiều sen trắng, và những cây cối này được trổ quả thường xuyên, có những hương thơm tỏa ra cực kỳ thơm ngát.
1244. Có những cây cột bằng ngọc bích vươn cao một trăm (ratana),1 có bề mặt trải dài làm bằng đá và san hô, có các viên ngọc mắt mèo và các viên hồng ngọc, và những trụ cột này làm bằng ngọc như ý.
1245. Có ngàn cây cột có năng lực không sánh bằng, phía trên chúng là Thiên cung tốt đẹp này, ở bên trong có châu báu, được kết hợp với hành lang bằng vàng, và được che phủ một cách khéo léo với những tấm lợp bằng vàng.
1246. (Thiên cung) này chói sáng với vàng từ sông Jambu đã được tinh luyện. (Khu vực ấy) khéo được đánh bóng, được hiện hữu với các tòa lâu đài, các cầu thang, các sân thượng, vững chãi, dễ thương, có dáng xinh xắn, khéo được phối hợp, vô cùng cuốn hút sự nhìn ngắm, làm hài lòng.
1247. Ở bên trong (Thiên cung) châu ngọc, có nhiều thức ăn thức uống, được tháp tùng bởi đoàn tiên nữ, được vang vang tiếng trống con, trống lớn, và các nhạc cụ, ngài được tôn vinh với sự ngợi ca và lễ bái.
1248. Ở tòa lâu đài nơi Thiên cung cao quý, làm thích ý, với sự đánh thức bởi các nhóm phụ nữ, ngài đây, không thể nghĩ bàn, có đủ mọi đức tính, vui sướng giống như đức vua Vessavaṇa ở Nalinī.
1249. Ngài là Thiên nhân, hay ngài là Dạ-xoa, là Chúa của chư Thiên, hay là bản thể nhân loại? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài. Xin ngài hãy nói tên (của ngài) là gì, có phải ngài là Dạ-xoa?”
1250. “Tôi chính là Dạ-xoa tên Serissaka, sống ở sa mạc, là người canh giữ đầm cát. Tôi hộ trì khu vực này, là người thực thi mệnh lệnh của đức Vua Vessavaṇa.”
1251. “(Công việc này) được nhận lãnh bởi ngài một cách ngẫu nhiên, được nảy sanh do sự phát triển, tự mình tạo ra, hay được chư Thiên giao cho? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài: Bằng cách nào mà ngài đã đạt được công việc hài lòng này?”
1252. “(Công việc này) không được nhận lãnh bởi tôi một cách ngẫu nhiên, không được nảy sanh do sự phát triển, không tự mình tạo ra, cũng không được chư Thiên giao cho. Công việc hài lòng này tôi đã đạt được nhờ vào những nghiệp không xấu xa, nhờ vào những phước thiện của chính mình.”
1253. “(Trước đây) phận sự của ngài là gì? Còn có hạnh kiểm cao đẹp gì? Quả thành tựu này là của việc gì đã khéo được thực hành? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài: Bằng cách nào mà ngài đã đạt được Thiên cung này?”
1254. “Vào lúc tôi cai quản vương quốc Kosala, Pāyāsi đã là danh hiệu của tôi. Lúc ấy tôi đã là người có quan điểm hư vô, bỏn xẻn, có bản tính xấu xa, và là người tuyên bố về đoạn kiến.
1255. Và rồi đã có vị Sa-môn Kumārakassapa, đa văn, có sự thuyết giảng sinh động, cao thượng. Khi ấy, vị ấy đã thực hiện việc thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi, đã xua đuổi những sự méo mó về quan điểm cho tôi.
1256. Tôi đây, sau khi lắng nghe sự thuyết giảng Giáo Pháp của vị ấy, đã tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Tôi đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và tôi đã không nói lời dối trá, tôi đã được vui thích (chỉ) với người vợ của mình.
1257. Việc ấy là phận sự của tôi, việc ấy còn là hạnh kiểm cao đẹp. Quả thành tựu này là của việc đã khéo được thực hành ấy. Nhờ vào những nghiệp không xấu xa, nhờ vào những phước thiện ấy đấy, mà tôi đã đạt được Thiên cung này.”
1258. “Nghe rằng những người có trí tuệ đã nói sự thật; lời nói của các bậc hiền trí là không sai khác. Người có nghiệp phước thiện đi đến bất cứ nơi nào đều vui sướng ở tại nơi ấy, là người có dục lạc theo như ước muốn.
1259. Bất cứ nơi nào có sự sầu muộn và than vãn, có sự giết chóc và sự giam cầm, có sự chướng ngại, kẻ có ác pháp đi đến nơi ấy, không khi nào được thoát khỏi cảnh giới khổ đau.”
1260. “Tập thể (chư Thiên) tựa như có vẻ bị bối rối, tựa như đã bị làm vẩn đục vào giây phút này. Thưa Thiên tử, vậy thì do điều gì mà tập thể này và ngài đã có sự thất vọng?”
1261. “Thưa quý vị, từ khu rừng sirīsa kế cận những hương thơm này thuộc cõi Trời tỏa ra thơm ngát; sau khi đã tiêu diệt bóng tối vào ban ngày và ban đêm chúng tự tỏa đến Thiên cung này.
1262. Và khi đã trải qua một trăm năm, chỉ một quả của những cây này được kết trái. Kể từ khi tôi được sanh ra ở tập thể (chư Thiên) tại nơi này thì một trăm năm nhân loại đã trôi qua.
1263. tôi đã nhìn thấy tôi sẽ tồn tại ở Thiên cung này năm trăm năm, do sự cạn kiệt của tuổi thọ, do sự cạn kiệt của phước báu, tôi sẽ chết; chính vì nỗi sầu muộn ấy tôi bị hoảng loạn.”
1264. “Bằng cách nào mà vị ấy, thuộc thành phần như thế, sau khi đạt được Thiên cung không thể sánh bằng một cách lâu dài, lại có thể sầu muộn? Chỉ có những người nào đã được sanh lên một cách ngắn ngủi, phải chăng những người ấy, với phước báu ít ỏi, mới có thể sầu muộn?”
1265. “Việc quý vị nói lời nói yêu mến với tôi (nghĩa là) điều khuyên bảo của tôi thích hợp đối với quý vị. Thưa quý vị, quý vị đã được tôi hộ trì theo như ước muốn, vì thế quý vị hãy lên đường một cách an toàn.”
1266. “Sau khi đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra, chúng tôi với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận, có sự hào phóng đầy đủ theo như kế hoạch, sẽ làm lễ hội cao sang cho Serissa.”
1267. “Quý vị chớ có làm lễ hội cho Serissa, và tất cả sẽ trở thành hiện thực cho quý vị theo điều quý vị nói. Quý vị hãy tránh xa hẳn các nghiệp ác xấu, và hãy phát nguyện gắn bó với Giáo Pháp.
1268. Ở tập thể này, có người cận sự nam đa văn, được đầy đủ giới hạnh và phận sự, có đức tin, có sự hào phóng, và vô cùng tốt lành, có sự suy xét, tự hài lòng, có sự thận trọng.
1269. Là người không cố tình nói lời dối trá, không suy nghĩ đến việc hãm hại người khác, không gây ra sự chia rẽ, đâm thọc, và nói lời mềm mỏng, tử tế.
1270. Có sự tôn kính, có sự phục tùng, đã được huấn luyện, không độc ác, thanh tịnh về giới bậc thượng, có hạnh kiểm thánh thiện, con người ấy nuôi dưỡng mẹ và luôn cả cha đúng theo Pháp.
1271. Tôi nghĩ rằng vị ấy tầm cầu của cải vì lý do (phụng dưỡng) mẹ cha, không vì nguyên nhân của bản thân. Với sự qua đời của mẹ và cha, người ấy, với khuynh hướng xuất ly, sẽ thực hành Phạm hạnh.
1272. Là người ngay thẳng, không khúc mắc, không gian trá, không xảo quyệt, và không phát biểu theo lối viện cớ. Vị ấy, như thế ấy, là người tạo nên hành động đã được thực hiện một cách tốt đẹp, đứng vững trong Giáo Pháp, sao lại nhận lãnh sự khổ đau?
1273. Bởi lý do người ấy, tôi tự thân hiện ra. Vì thế, quý vị thương buôn hãy nhận thức Giáo Pháp. Ở đây, không có người ấy, quý vị có thể trở thành tro bụi, bị rối loạn như người mù, bị lạc lối trong khu rừng; (bởi vì) đối với kẻ đang xử tệ người ấy, như thế ấy hay việc khác nữa là điều dễ dàng. Quả vậy, việc kết giao với người tốt lành là hạnh phúc.”
1274. “Người ấy tên là gì, làm nghề nghiệp gì, tên gọi là gì, hơn nữa họ của người ấy là gì? Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi cũng có mong muốn được gặp người ấy, vì lòng thương tưởng người ấy mà ngài đã đi đến nơi đây, bởi vì người nào mà ngài yêu quý thì lợi ích là thuộc về người ấy.”
1275. “Người nào là thợ cạo, có tên gọi là Sambhava, là người cận sự nam, có sự nuôi mạng bằng lược và dao cạo, quý vị biết người ấy, người ấy là người sai vặt của quý vị. Đúng vậy, chớ khinh chê người ấy, người ấy vô cùng tốt lành.”
1276. Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi biết người mà ngài nói, nhưng chúng tôi quả không biết người ấy là người như thế ấy. Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi cũng sẽ tôn vinh người ấy sau khi lắng nghe lời nói cao cả của ngài.”
1277. “Bất cứ người nào ở đoàn xe này, thanh niên, lão niên, luôn cả trung niên, hết thảy tất cả những người ấy hãy bước lên Thiên cung, những kẻ keo kiệt hãy nhìn xem quả báo của các việc phước thiện.”
1278. “Tại đó, sau khi đã đưa người thợ cạo ấy lên phía trước tại nơi ấy, hết thảy tất cả những người ấy (đã nói rằng): ‘Tôi trước,’ hết thảy tất cả những người ấy đã bước lên Thiên cung tựa như (Thiên cung) Masakkasāra của vị Vāsava (Chúa Trời Sakka).
1279. Tại đó, hết thảy tất cả những người ấy (đã nói rằng): ‘Tôi trước’ và đã tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Họ đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, họ đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.
1280. Không có việc uống chất say, và họ đã không nói lời dối trá, họ đã được vui thích (chỉ) với người vợ của mình. Tại đó, hết thảy tất cả những người ấy (đã nói rằng): ‘Tôi trước’ và đã tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Trong khi đang tùy hỷ với thần thông của vị Dạ-xoa đợt này đến đợt khác, đoàn xe, được cho phép, đã khởi hành.
1281. Sau khi đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra, những người ấy với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận, có sự đạt được đầy đủ theo như kế hoạch, đã trở về lại Pāṭaliputta không bị tổn hại.
1282. Những người ấy, sau khi đi về đến căn nhà của mình, có sự an toàn, được gần gũi với những người con và những người vợ, có sự vui thích, hớn hở, có tâm ý vui vẻ, trở nên mừng rỡ, đã làm lễ hội cao sang cho Serissa.
1283. Những người ấy đã cho xây dựng tòa nhà Serissakā. Sự thân cận với những người tốt lành là như thế ấy, sự thân cận với những đức tính của Giáo Pháp là có lợi ích lớn, nhờ vào sự lợi ích của một cận sự nam, hết thảy tất cả chúng sanh đã có trạng thái hạnh phúc.”
Thiên Cung của Serissaka.
1284. “Thiên cung này cao, có cây trụ chống bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
1285. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
1286. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
1287. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
1288. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
1289. “Sau khi khéo đặt xuống tràng hoa đã được đặt xuống cẩu thả, sau khi sắp đặt nó ở ngôi bảo tháp của đấng Thiện Thệ, tôi trở nên có đại thần lực và có đại oai lực, được thọ hưởng các dục ở cõi Trời.
1290. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
1291. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Thiên Cung Khéo Đặt Xuống.
Phẩm Khéo Đặt Xuống là thứ bảy.
*****
Tóm Lược Phẩm Này
(Chuyện) hai người nghèo khó, hai trú xá, kẻ làm thuê, người chăn bò, con ngựa Kanthaka, (Thiên cung) nhiều màu sắc, Maṭṭakuṇḍalī, Serissaka, (Thiên cung) khéo đặt xuống; là phẩm thứ ba của những người nam.”
Tụng phẩm thứ tư.
Chuyện thiên cung được chấm dứt.
--ooOoo--